Nghiên cứu quy định về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại của Canada, Peru

I. Quy định của Canada Ngày 2/1/2019, D14-1-7 đã được sửa đổi để bao gồm thông tin về trách nhiệm của nhà nhập khẩu đối với việc thanh toán thuế chống bán phá giá (ADD) và/hoặc thuế chống trợ cấp (CVD) đối với hàng hóa nhập khẩu phù hợp với những hàng hóa bị kết luận là vi phạm thuế ADD và/hoặc CVD theo Đạo luật về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt (SIMA). Các sửa đổi cũng bao gồm thông tin về việc thanh toán thuế trong quá trình rà soát lẩn tránh tạm thời (interim) và rà soát miễn trừ.

Hành vi lẩn tránh xảy ra khi các phương thức kinh doanh và thương mại được thay đổi để đặc biệt tránh trách nhiệm đối với thuế quy định theo SIMA.

Mục 71- 76 của SIMA cho phép cơ quan điều tra (Cục Biên phòng Canada- CBSA) điều tra các cáo buộc rằng thuế ADD và CVD đang bị lẩn tránh và, nếu cần thiết, để mở rộng phạm vi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu đang lẩn tránh thuế.

D14-1-7 đã được cập nhật để quy định rằng việc áp thuế SIMA sẽ có hiệu lực vào ngày sau khi Tòa án Thương mại Quốc tế Canada (CITT) sửa đổi lệnh hoặc kết luận để bao gồm cả các hàng hóa đó và thuế hồi tố cũng sẽ được áp đối với hàng hóa được nhập vào hoặc sau ngày CBSA bắt đầu cuộc điều tra chống lẩn tránh.

Theo mục 55.1 của SIMA, việc áp thuế hồi tố sẽ được hoàn thành bởi một viên chức được chỉ định trong vòng 6 tháng kể từ khi CITT sửa đổi và một tuyên bố điều chỉnh chi tiết (DAS) sẽ được ban hành liên quan đến quyết định.

Sau khi bất kỳ khoản nợ nào đã được thanh toán, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu xác định lại giá trị thông thường, giá xuất khẩu, khoản trợ cấp hoặc liệu hàng hoá nhập khẩu có giống với mô tả hàng hoá có tên trong sửa đổi của CITT hay không.

Các cuộc điều tra chống lẩn tránh liên quan đến việc xác định xem liệu một nhà sản xuất nước ngoài có thay đổi phương thức kinh doanh và thương mại của mình để tránh thuế chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp hay không. Chẳng hạn, hành vi lẩn tránh có thể xảy ra khi một nhà sản xuất nước ngoài vận chuyển các bộ phận đến một nước thứ ba để lắp ráp nhằm tránh thuế. Theo luật hiện hành, một cuộc điều tra chống gian lận phải bắt đầu bằng một cuộc điều tra chính thức, đặt gánh nặng lên người khiếu nại trong việc chứng minh các cáo buộc bằng bằng chứng. Mặc dù hành vi lẩn tránh có thể gây ra một vấn đề nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước, nhưng trên thực tế, các cuộc điều tra chống lẩn tránh hầu như không bao giờ được khởi động. Điều này là do quá trình điều tralà không rõ ràng. Để khắc phục tình trạng này, chính phủ Canada đang lấy ý kiến về việc làm rõ tiêu chuẩn áp dụng cho việc khởi xướng chúng.

Vì hành vi lẩn tránh cho phép các nhà sản xuất nước ngoài áp đặt thuế theo từng bước một cách hiệu quả theo luật pháp Canada, nên việc giảm nhẹ các biện pháp phòng vệ thương mại đưa ra có thể bị giảm tác dụng nếu thông lệ này được phép xảy ra hoặc đơn giản là quá nặng nề để thực thi. Một quy trình minh bạch và rõ ràng hơn để khởi động các cuộc điều tra này sẽ mang lại sự chắc chắn hơn, giảm rủi ro liên quan đến việc khởi xướng và nâng cao triển vọng rằng việc điều tra sẽ thực sự được sử dụng. Do đó, những thay đổi được đề xuất có thể bổ sung một công cụ hiệu quả vào “kho vũ khí” của các nhà sản xuất trong nước để khởi kiện lẩn tránh.

II. Quy định của Peru

Năm 2020 Peru đã thông qua một luật mới nhằm ngăn chặn việc lẩn tránh các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp. Luật định nghĩa hành vi lẩn tránh là bất kỳ trường hợp nào ngụ ý có sự thay đổi trong các hình thức nhập khẩu với mục đích trốn tránh hoặc lẩn tránh việc nộp thuế AD hoặc CVD do các cơ quan có thẩm quyền của Peru áp đặt để điều chỉnh hành vi bán phá giá hoặc trợ cấp đối kháng gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.

Luật quy định rằng các hình thức lẩn tránh chính bao gồm:

  1. nhập khẩu các phần, bộ phận hoặc linh kiện từ lãnh thổ hải quan hoặc quốc gia xuất xứ của sản phẩm cuối cùng phải chịu thuế AD/CVD cuối cùng để lắp ráp hoặc hoàn thiện sản phẩm ở Peru;
  2. nhập khẩu một sản phẩm được lắp ráp hoặc hoàn thiện tại nước thứ ba hoặc lãnh thổ hải quan với các phần, bộ phận hoặc linh kiện có xuất xứ tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ hải quan chịu thuế AD/CVD;
  3. việc nhập khẩu một sản phẩm chịu thuế AD/CVD với các sửa đổi hoặc thay đổi nhỏ không ngụ ý thay đổi các đặc tính cơ bản của sản phẩm đó;
  4. tổ chức lại các kênh bán hàng để một sản phẩm chịu thuế AD/CVD được nhập khẩu thông qua các nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu hưởng lợi từ mức thuế riêng lẻ thấp hơn hoặc những người chưa bị áp dụng thuế;
  5. việc nhập khẩu một sản phẩm chịu thuế AD/CVD mà không được chứng minh, theo các quy định liên quan, rằng sản phẩm đó có xuất xứ khác với quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan của hàng hóa chịu thuế AD/CVD; và
  6. bất kỳ hành vi nào khác có mục đích trốn tránh việc thanh toán các thuế AD/CVD.

Luật quy định một quy trình để các bên quan tâm gửi yêu cầu rà soát chống lẩn tránh, mặc dù các rà soát đó cũng có thể được thực hiện thông qua việc cơ quan điều tra tự khởi xướng. Giai đoạn chứng cứ của thủ tục tố tụng phải được kết thúc trong vòng 6 tháng kể từ ngày khởi xướng, mặc dù khung thời gian đó có thể được kéo dài thêm 3 tháng. Ủy ban về bán phá giá, trợ cấp và xóa bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan (CDB) được yêu cầu công bố tài liệu về dữ kiện thiết yếu làm cơ sở cho quyết định cuối cùng trong vòng 30 ngày kể từ ngày kết thúc giai đoạn chứng minh; Các bên liên quan sau đó phải được thông báo trong vòng 5 ngày làm việc và sẽ có 15 ngày để gửi ý kiến. Sau khi hết thời hạn lấy ý kiến, CDB phải đưa ra quyết định cuối cùng trong vòng 25 ngày làm việc. Nói chung, cuộc điều tra phải được hoàn thành trong khoảng thời gian 12 tháng.

Trong quá trình tiến hành cuộc điều tra chống lẩn tránh, CDB có thể hướng dẫn cơ quan hải quan thông qua một quyết định hợp lý để yêu cầu các nhà nhập khẩu xuất trình thư bảo lãnh của ngân hàng như một sự đảm bảo thanh toán mọi khoản thuế AD/CVD có thể phải trả do quá trình điều tra, mặc dù yêu cầu như vậy có thể không được áp dụng sớm hơn 60 ngày kể từ ngày bắt đầu khởi xướng điều tra. Các quyết định chống lẩn tránh có thể bị kháng cáo trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày thông báo hoặc công bố. Phòng Bảo vệ Cạnh tranh của Tòa án INDECOPI phải giải quyết mọi kháng cáo trong vòng 4 tháng.

 

Tin tức khác