Đề xuất các bài học kinh nghiệm về điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và điều kiện áp dụng tại Việt Nam
Bài học từ quy định về điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC của các nước cho thấy việc có một khung pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh về nội dung này sẽ giúp ích cho Việt Nam trong việc xử lý các hành vi lẩn tránh thuế một cách hiệu quả, tránh làm giảm/mất đi ảnh hưởng của biện pháp CBPG/CTC đã áp dụng. Điều này có ý nghĩa lớn khi Việt Nam đang tích cực hơn trong việc sử dụng công cụ PVTM nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước những tác động tiêu cực từ hàng nhập khẩu và các hành vi thương mại không công bằng. Bên cạnh đó, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng toàn cầu, các hành vi lẩn tránh thuế ngày càng trở nên đa dạng hơn, đòi hỏi các quy định chặt chẽ và đầy đủ để phát hiện và xử lý.
Trước năm 2018, tại các văn bản pháp luật về PVTM của Việt Nam (Pháp lệnh, Nghị định về CBPG, CTC) đều không có quy định về vấn đề chống lẩn tránh thuế, tạo ra một “khoảng trống” pháp lý khiến cơ quan điều tra không có căn cứ pháp lý để tiến hành điều tra vụ việc chống lẩn tránh thuế mặc dù có các dấu hiệu cho thấy có việc lẩn tránh biện pháp PVTM. Hạn chế này đã được bổ sung khi Việt Nam ban hành hệ thống văn bản pháp lý mới về PVTM (Luật Quản lý ngoại thương có hiệu lực từ năm 2018, Nghị định 10/2018/NĐ-CP, Thông tư 06/2018/TT-BCT), theo đó, hiện nay Việt Nam đã xây dựng được khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh về vấn đề chống lẩn tránh thuế PVTM. Cụ thể:
- Điều 72 Luật Quản lý Ngoại thương 2017 quy định chung về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) như: khái niệm lẩn tránh biện pháp PVTM; việc áp dụng mở rộng biện pháp PVTM trong trường hợp xác định có hành vi lẩn tránh biện pháp PVTM, căn cứ cho việc điều tra và quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế. Điều 73 quy định về cơ quan điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM.
- Quy định cụ thể về các hành vi lẩn tránh thuế, trình tự thủ tục điều tra được nêu trong Chương V của Nghị định 10/2018/NĐ-CP.
Tuy nhiên, so với quy định pháp luật của các nước về lĩnh vực này, pháp luật của Việt Nam còn nhiều điểm cần bổ sung hoàn thiện nhằm đảm bảo sự đầy đủ hơn nữa, cụ thể:
+ Điều 67 Luật Quản lý ngoại thương quy định các biện pháp PVTM bao gồm biện pháp CBPG, CTC và tự vệ. Vì vậy, có thể có hai luồng ý kiến khác nhau: (i) coi biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM (trong đó có chống lẩn tránh biện pháp CBPG/CTC) không thuộc định nghĩa về các biện pháp PVTM (đây là cách hiểu chung, phổ biến). Khi đó, điều này dẫn đến việc không thể “ngầm hiểu”, suy luận là các quy định về trình tự, thủ tục điều tra biện pháp PVTM sẽ tự động được áp dụng với điều tra chống lẩn tránh thuế (qua nghiên cứu quy định pháp luật của các nước tại mục trên, có thể thấy biện pháp chống lẩn tránh có trình tự, quy trình điều tra riêng, khác với vụ việc điều tra PVTM thông thường) mà phải có các quy định chi tiết, riêng rẽ, đầy đủ hơn nữa để đảm bảo không có “khoảng trống” pháp luật, đặc biệt trong bối cảnh quy định của Việt Nam về việc công chức, cơ quan nhà nước chỉ được thực hiện những gì pháp luật quy định thì điều này càng quan trọng để CQĐT có cơ sở pháp lý đầy đủ trong việc thực thi pháp luật; (ii) coi biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM là một biện pháp “phái sinh” của biện pháp PVTM nên cũng được “ngầm hiểu” là các quy định liên quan về trình tự, thủ tục điều tra biện pháp PVTM sẽ được áp dụng với biện pháp chống lẩn tránh (trừ trường hợp có quy định cụ thể trong mục chống lẩn tránh). Tuy nhiên, trong trường hợp như vậy, cần có quy định cụ thể về vấn đề này tại các văn bản pháp luật liên quan để CQĐT có căn cứ khi áp dụng, tránh cách hiểu mâu thuẫn, khác nhau đối với những vấn đề không được quy định, hoặc quy định không rõ tại phần chống lẩn tránh thuế.
+ Quy định về các hành vi lẩn tránh thuế trong pháp luật Việt Nam tại Điều 73 Nghị định 10/2018/NĐ-CP hiện mới chỉ dừng ở 5 hành vi lẩn tránh gồm: (1) thông qua sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam; (2) thông qua sản xuất, lắp ráp tại nước thứ ba; (3) sự khác biệt không đáng kể của hàng hoá bị điều tra và hàng hoá bị áp thuế; (4) chuyển tải thông qua nước thứ ba; (5) thông qua thay đổi hình thức kinh doanh và kênh phân phối để hưởng lợi từ mức áp dụng biện pháp PVTM thấp hơn mức đang áp dụng.[1] Trong khi đó, so với pháp luật của các nước nêu trên, một số loại hành vi khác chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam như Úc: bán thấp hơn giá đã có thuế trong một khoảng thời gian để làm mất đi ảnh hưởng của thuế; Hoa Kỳ: lẩn tránh fictious market (thay đổi giá của các dạng khác nhau của sản phẩm), sản phẩm phiên bản sau (later developed product), sản phẩm vòng đời ngắn, lẩn tránh hạ nguồn; EU: lẩn tránh absorption hoặc hình thức khác như: lẩn tránh thông qua hệ thống công ty đa quốc gia (country hopping)…
Trên thực tế, các hành vi lẩn tránh là nội dung quan trọng trong pháp luật về chống lẩn tránh thuế vì đây là căn cứ để cơ quan điều tra và/hoặc ngành sản xuất trong nước phát hiện, xác định và tiến hành/yêu cầu điều tra. Việc quy định không đủ các hành vi lẩn tránh có thể sẽ giới hạn việc điều tra, gây khó khăn cho cơ quan điều tra khi tiến hành, làm giảm hiệu quả tổng thể của biện pháp PVTM, gây ra hiện tượng bất hợp lý khi để “lọt” những hành vi lẩn tránh đáng lẽ sẽ phải áp thuế.
+ Ngoài ra, việc xác định sự khác biệt không đáng kể đối với hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM nhằm lẩn tránh biện pháp PVTM (Điều 78 Nghị định 10/2018/NĐ-CP) hiện đang tập trung ở các tiêu chí như đặc điểm, mục đích sử dụng, kênh phân phối và chi phí. Do những thay đổi đối với hàng hóa rất đa dạng, nên cần cân nhắc xem xét thêm các tiêu chí xác định để tránh trường hợp thiếu sót (ví dụ: sự chấp nhận của người mua cuối cùng; sự quảng cáo và bày bán của sản phẩm…).
+ Bên cạnh đó, quy định theo Điều 73 là sự khác biệt không đáng kể của sản phẩm nhưng khi dẫn chiếu sang Điều 77 lại là sự thay đổi không đáng kể của sản phẩm- cho thấy còn chưa thống nhất trong cách tiếp cận do dùng hai khái niệm khác nhau để chỉ một hành vi, một hiện tượng.
+ Quy định tại Điều 74 (lẩn tránh thông qua sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam) và Điều 76 (lẩn tránh thông qua sản xuất, lắp ráp tại nước thứ 3) mới chỉ nhắc đến việc bán phá giá chứ chưa nói đến lẩn tránh biện pháp CTC (có thể “ngầm hiểu” rằng quy định này của Việt Nam giống với EU vì EU quy định hành vi này chỉ áp dụng với chống lẩn tránh thuế CBPG), tuy nhiên do các nước khác cũng có quy định về chống lẩn tránh thuế CTC, vì vậy Việt Nam cũng có thể cân nhắc bổ sung nội dung này. Ngoài ra, cần đối chiếu các hành vi tương tự nhau nhưng quy định cụ thể có sự khác biệt (không rõ là có chủ đích hay bị bỏ sót), ví dụ: (i) hành vi lẩn tránh thông qua sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam (Điều 74 Nghị định 10) có quy định về phép thử 25% (Điều 75 Nghị định 10) nhưng hành vi lẩn tránh thông qua sản xuất, lắp ráp tại nước thứ 3 (Điều 76 Nghị định 10) thì lại không có quy định này; (ii) Điều 74 Nghị định 10 về hành vi lẩn tránh thông qua lắp ráp tại Việt Nam quy định một trong những điều kiện chứng minh có hành vi lẩn tránh là “hoạt động sản xuất, lắp ráp gia tăng đáng kể ngay trước hoặc kể từ ngày Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định điều tra…” (khoản 3) trong khi đó khoản 3 Điều 76 Nghị định 10 về lẩn tránh thông qua lắp ráp tại nước thứ 3 quy định “khối lượng, số lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam bắt đầu và gia tăng đáng kể …..” (quy định tại Điều 76 giống với quy định của EU).
+ Pháp luật Việt Nam cũng không có quy định về hồi tố, đăng ký nhập khẩu, rà soát, loại trừ/miễn trừ, thủ tục loại trừ/miễn trừ; mức thuế sơ bộ (như EU), định nghĩa về linh kiện (như Hoa Kỳ), cam kết, hoàn thuế,…
+ Chưa rõ về đối tượng được quyền nộp Hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp (ví dụ Brazil quy định bên được yêu cầu điều tra phải là bên liên quan trong vụ việc CBPG/CTC ban đầu).
+ Vấn đề mở rộng biện pháp nhưng áp ở mức thuế nào cũng không được quy định cụ thể, sẽ là mức thuế bình quân gia quyền của các doanh nghiệp bị đơn riêng rẽ trong vụ việc ban đầu (all others rate), hay là mức thuế áp cho toàn quốc (country wide rate). Cũng không có quy định rõ là doanh nghiệp hợp tác có được áp mức thuế riêng rẽ hay không.
+ Vấn đề trình tự thủ tục điều tra: thời hạn gửi bản câu hỏi, thời hạn trả lời, thẩm tra, vấn đề doanh nghiệp không hợp tác, chấm dứt điều tra…. cũng không được quy định rõ và cũng không rõ là các quy định tương ứng liên quan đến biện pháp PVTM (chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ) có được áp dụng cho biện pháp chống lẩn tránh thuế hay không.
+ Bên cạnh đó, có thể cân nhắc xem xét quy định chi tiết hơn, sửa đổi một số nội dung để CQĐT có căn cứ hơn khi xem xét vấn đề, tạo sự thuận tiện, linh hoạt hơn cho quá trình điều tra, ra quyết định ví dụ:
(i) đối với Điều 74, 76 Nghị định 10/2018 quy định về hành vi lẩn tránh thông qua sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam/tại nước thứ 3, có thể cân nhắc bổ sung quy định về mức độ đầu tư ở Việt Nam/nước thứ 3, mức độ nghiên cứu và phát triển (R&D), bản chất của quá trình sản xuất, mức độ các cơ sở sản xuất (giống như cách quy định của Hoa Kỳ);
(ii) hoặc quy định rõ hơn một số thuật ngữ còn mơ hồ: ví dụ như “ngay trước khi điều tra” tại Điều 74.3 Nghị định 10/2018, cấu thành “chi phí sản xuất” hàng hoá (Điều 75 Nghị định 10), “gia tăng đáng kể” (khoản 3 Điều 74, khoản 3 Điều 76, Điều 77 Nghị định 10)
(iii) quy định rõ hơn về các điều kiện, tiêu chí xác định hành vi lẩn tránh thông qua chuyển tải, thông qua nhà xuất khẩu có mức thuế thấp hơn (theo Điều 73.4, 73.5 Nghị định 10) vì hiện tại 2 hành vi này chưa được quy định chi tiết hơn như 3 hành vi còn lại (lẩn tránh thông qua lắp ráp tại Việt Nam, thông qua lắp ráp tại nước thứ 3 và thông qua sự thay đổi không đáng kể của hàng hoá).
(iv) làm rõ mức thuế áp dụng biện pháp chống lẩn tránh sẽ là mức thuế CBPG/CTC của vụ việc điều tra ban đầu (do phạm vi áp dụng biện pháp PVTM có thể được mở rộng đối với hàng hoá lẩn tránh) (giống như thông lệ một số nước khác) hay là có thể tính toán mức thuế mới (giống như thực tiễn điều tra của Úc). Trong trường hợp áp mức thuế của vụ việc ban đầu, có thể xem xét bỏ quy định không cần thiết tại điểm h Điều 79.2 Nghị định 10 (quy định đơn yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế phải nêu mức độ áp dụng – tức là mức thuế), điều này là không thực sự cần thiết trong trường hợp thuế CBPG/CTC của vụ việc điều tra ban đầu sẽ được áp.
(v) Khoản 1 Điều 83 Nghị định 10 quy định: “Trong thời hạn 15 ngày kể từ khi CQĐT gửi kết luận cuối cùng, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp chống lẩn tránh…”. Việc quy định thời hạn tương đối ngắn (15 ngày) và không quy định việc có thể ra quyết định muộn hơn thời hạn này (gia hạn thời hạn ra quyết định) có thể gây khó khăn, không linh hoạt đặc biệt trong bối cảnh Lãnh đạo Bộ bận/đi công tác hoặc với những vụ việc phức tạp cần thêm thời gian xem xét. Ví dụ Úc quy định thời hạn tương ứng là 30 ngày và có thể gia hạn.
+ Cần rà soát lại lời văn để quy định rõ ý hơn, thống nhất trong cách sử dụng các thuật ngữ, cách dùng từ, nhất là với các quy định có liên quan đến nhau, ví dụ:
(i) khoản 1 Điều 73 Nghị định 10 quy định về “nguyên vật liệu, linh kiện hoặc vật tư có xuất xứ từ nước bị áp dụng biện pháp PVTM nhập khẩu vào Việt Nam để sản xuất hàng hoá bị áp dụng biện pháp PVTM.” Trong khi đó lời văn Điều 74 Nghị định 10 dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 73 (quy định về hành vi lẩn tránh) lại có thêm thuật ngữ “lắp ráp” (hành vi lẩn tránh thông qua sản xuất, lắp ráp); hoặc
(ii) khoản 3 Điều 74, khoản 3 Điều 76, khoản 2 Điều 77 Nghị định 10 quy định về việc hoạt động sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam/khối lượng, số lượng hàng hoá lẩn tránh nhập khẩu vào Việt Nam gia tăng đáng kể ngay trước hoặc kể từ ngày Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định điều tra, có thể hiểu “quyết định điều tra” ở đây muốn nói đến quyết định điều tra vụ việc ban đầu chứ không phải vụ việc chống lẩn tránh thuế, tuy nhiên nếu chỉ quy định như vậy thì dễ gây nhầm lẫn vì vậy nên bổ sung cho rõ (ví dụ quy định của EU nói rõ là “quyết định điều tra vụ việc CBPG”).
+ Có thể thấy quy định của Việt Nam về chống lẩn tránh thuế chủ yếu dựa trên cơ sở tham khảo quy định của EU. Tuy nhiên, có một số quy định (như vấn đề loại trừ/miễn trừ, đăng ký nhập khẩu, thuế sơ bộ, hồi tố…), lời văn của EU không được phản ánh trong quy định Việt Nam, hoặc quy định của EU về vấn đề lẩn tránh thông qua lắp ráp tại EU, nước thứ ba quy định “…các linh kiện/bộ phận liên quan từ nước bị áp dụng biện pháp…” (có thể hiểu là xuất khẩu từ) trong khi đó Việt Nam quy định rằng các “nguyên vật liệu, linh kiện hoặc vật tư có xuất xứ từ nước bị áp dụng biện pháp (khoản 1 Điều 73, khoản 2 Điều 74 Nghị định 10)/hàng hoá tương tự với hàng hoá đang bị áp dụng biện pháp PVTM có xuất xứ từ nước thứ 3 (khoản 2 Điều 73, khoản 4 Điều 76 Nghị định 10…”, vấn đề “nước xuất khẩu” và “nước xuất xứ” là 2 vấn đề khác nhau. Điều này không rõ là do bị bỏ sót hay có chủ ý. Vì vậy, cần rà soát lại.
Bên cạnh đó, vẫn có thể tham khảo thêm quy định của các nước khác về các vấn đề mà Việt Nam chưa quy định hoặc quy định chưa rõ. Lấy ví dụ, qua tham khảo thực tiễn điều tra của Úc (vụ việc với thép tấm luyện của Thuỵ Điển), vụ việc cho thấy CQĐT đã chấm dứt điều tra (huỷ) sau khi khởi xướng điều tra vì phát hiện ra lỗi sai của CQĐT, tại quyết định chấm dứt điều tra, CQĐT đã nhận sai và ra quyết định chấm dứt vụ việc.
+ Việt Nam quy định việc mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp PVTM với hàng hoá lẩn tránh (Điều 73 Nghị định 10), tuy nhiên không quy định rõ là việc mở rộng phạm vi này áp dụng như thế nào, ví dụ: trong quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh sẽ ghi là áp thuế CBPG/CTC của vụ việc ban đầu với hàng hoá lẩn tránh hay sẽ quy định việc mở rộng phạm vi hàng hoá bị áp thuế CBPG/CTC của vụ việc ban đầu nếu kết luận có lẩn tránh (tức là thay đổi phạm vi hàng hoá bị áp dụng biện pháp ban đầu).
+ Một số nước (Hoa Kỳ, Úc…) có quy định về thời hạn điều tra khác nhau cho các hành vi khác nhau do tính chất của từng hành vi, Việt Nam hiện quy định 1 thời hạn chung cho tất cả các hành vi.
Do đó, cần nghiên cứu bổ sung thêm một số quy định để hoàn thiện hơn nữa khung khổ pháp lý về chống lẩn tránh thuế.
1. Bài học về giám sát, phát hiện vấn đề
Thực tế, qua nghiên cứu những vụ việc do các nước tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế, trong đó có các vụ việc với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, cho thấy hầu hết đều xuất phát từ dấu hiệu chuyển hướng thương mại, cụ thể như sau:
(1) Sự gia tăng trong:
(i) Hàng hóa bị áp dụng biện pháp CBPG/CTC từ nước thứ ba (thường là những nước có vị trí địa lý gần gũi với nước có hàng hóa bị áp dụng biện pháp) xuất khẩu vào nước đang áp dụng biện pháp CBPG/CTC;
(ii) Hàng hóa là bán thành phẩm của sản phẩm đang là đối tượng áp dụng biện pháp CBPG/CTC do nước nhập khẩu tiến hành;
(iii) Hàng hóa bị áp dụng biện pháp CBPG/CTC từ nhà xuất khẩu có mức thuế thấp trong vụ việc điều tra ban đầu.
(iv) Hàng hóa là các bộ phận, linh kiện của sản phẩm bị áp dụng biện pháp CBPG/CTC tăng từ nước đang bị áp dụng biện pháp.
(2) Thời điểm gia tăng:
(i) Khi có thông tin khởi xướng điều tra biện pháp CBPG/CTC với hàng hóa xuất khẩu từ các nước là đối tượng bị điều tra;
(ii) Sau khi có quyết định sơ bộ hoặc quyết định chính thức áp dụng biện pháp CBPG/CTC với hàng hóa từ các nước bị điều tra.
Do đó, sau khi khởi xướng điều tra hoặc sau khi ban hành quyết định áp dụng biện pháp CBPG/CTC, cần có cơ chế thu thập thông tin, số liệu nhập khẩu các loại hàng hóa từ nước thứ ba (có thể qua cơ chế khai báo nhập khẩu) để có thể phát hiện trước vấn đề và có biện pháp xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, cũng cần giám sát chặt chẽ việc nhập khẩu linh kiện, thiết bị của sản phẩm bị áp dụng biện pháp cũng như cần theo dõi việc thực hiện biện pháp từ chính các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài để tránh dịch chuyển kênh phân phối sang các công ty có mức thuế thấp hơn.
Thêm vào đó, cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá hành vi của các nhà xuất khẩu để tránh trường hợp lẩn tránh qua hình thức tiếp tục duy trì việc bán phá/trợ cấp giá nhằm “triệt tiêu” hoàn toàn ngành sản xuất trong nước.
Cần theo dõi về diễn biến đầu tư, hành vi của các công ty bị áp dụng biện pháp CBPG/CTC, và nước lân cận nước bị áp dụng biện pháp CBPG/CTC để có kế hoạch triển khai khi cần thiết.
Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng hệ thống cảnh báo sớm các vụ việc phòng vệ thương mại, tuy nhiên mới tập trung vào hàng hóa xuất khẩu. Trong thời gian tới, cần nâng cấp, mở rộng hệ thống để có thể thu thập, theo dõi, giám sát hàng hóa nhập khẩu để có thể đưa ra cảnh báo kịp thời nguy cơ lẩn tránh biện pháp CBPG/CTC. Từ đó, hỗ trợ CQĐT xử lý hiệu quả vấn đề này.
2. Bài học về bố trí tổ chức và phối hợp giữa các cơ quan chức năng
Có thể thấy rằng việc theo dõi sát và xử lý các vụ việc điều tra lẩn tránh thuế nước ngoài tiến hành đối với Việt Nam là nhiệm vụ cần thiết, quan trọng và trên thực tế, nhiệm vụ này đã và sẽ đem lại những bài học, kinh nghiệm quý báu cho công tác điều tra chống lẩn tránh thuế của Việt Nam. Một trong số đó là bài học về bố trí tổ chức và phối hợp giữa các cơ quan.
Có thể nói, hiệu quả của công tác điều tra chống lẩn tránh thuế phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có sự bố trí và phối hợp hiệu quả giữa nhiều cơ quan liên quan khác nhau (bên cạnh CQĐT), đặc biệt là cơ quan hải quan và Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), các đơn vị chuyên môn liên quan trong Bộ Công Thương cũng như các Bộ ngành khác, Hiệp hội ngành hàng. Từ thực tiễn, kinh nghiệm cho thấy, sự bố trí và phối hợp giữa các cơ quan bao gồm các khía cạnh sau đây:
Các cơ quan liên quan
a. Cơ quan điều tra
Cơ quan điều tra chống lẩn tránh thuế của Việt Nam là Cục Phòng vệ thương mại (PVTM), trực thuộc Bộ Công Thương.
Cục PVTM là đơn vị chủ trì, có chức năng tham mưu, quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với lĩnh vực CBPG, CTC và tự vệ; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn việc thực hiện, theo dõi và rà soát việc chấp hành các quyết định áp dụng biện pháp CBPG, CTC và tự vệ. Trong công tác điều tra chống lẩn tránh thuế, Cục PVTM chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về điều tra chống lẩn tránh thuế PVTM, thụ lý hồ sơ, tổ chức điều tra chống lẩn tránh thuế, báo cáo kết quả điều tra và kiến nghị Bộ trưởng ra quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế PVTM đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
Do là cơ quan chủ trì điều tra chống lẩn tránh thuế PVTM, Cục PVTM có vai trò trong việc chủ động theo dõi, giám sát việc chấp hành các quyết định áp thuế, xu hướng tăng, giảm nhập khẩu hàng hoá có liên quan để kịp thời phát hiện hành vi lẩn tránh thuế… Để làm được nhưng việc này, cần có sự phối hợp với các cơ quan chuyên trách khác như sẽ trình bày trong phần sau đây.
Tham khảo mô hình của CQĐT Hoa Kỳ (DOC) còn có 1 Phòng về Quan hệ với Cơ quan hải quan do trong một vụ việc PVTM nói chung và vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC rất cần sự phối hợp với hải quan, vì vậy CQĐT Việt Nam cũng có thể tham khảo cơ cấu tổ chức này trong tương lai khi CQĐT có cơ hội phát triển hơn về quy mô. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ trong vụ việc điều tra PVTM nói chung và chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC nói riêng bao gồm DOC và ITC- là hai cơ quan độc lập với nhau, có thẩm quyền điều tra những vấn đề khác nhau (DOC: điều tra về hành vi lẩn tránh, ITC: điều tra về thiệt hại). Việt Nam cũng phần nào học tập mô hình này (có 2 Phòng điều tra: Phòng Điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và Phòng Điều tra thiệt hại và tự vệ), mặc dù hai Phòng này có thẩm quyền điều tra hai nội dung khác nhau nhưng do vẫn trực thuộc cùng 1 cơ quan nên một mặt có sự thuận lợi trong việc hợp tác, phối hợp công việc nhưng bên cạnh đó, cũng cần thận trọng tránh những hạn chế có thể gặp phải với mô hình này.
b. Cơ quan có liên quan cần phối hợp
- Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương)
Cục Xuất nhập khẩu là một trong những cơ quan có liên quan trong việc thực hiện, theo dõi, rà soát việc chấp hành các quyết định áp thuế CBPG, CTC, hay áp thuế chống lẩn tránh thuế. Với chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hoá, hoạt động uỷ thác, uỷ thác xuất khẩu, uỷ thác nhập khẩu, đại lý mua bán, gia công, xuất xứ hàng hoá…, Cục Xuất nhập khẩu là cơ quan có tầm quan trọng nhất định trong việc hỗ trợ Cục PVTM điều tra chống lẩn tránh thuế: theo dõi và rà soát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và thông tin phản hồi cho Cục PVTM.
- Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính)
Theo Điều 14.1 và 14.2 Nghị định 10/2018/NĐ-CP, Cơ quan hải quan Việt Nam, trong phạm vi quyền hạn và chức năng, có trách nhiệm:
a) Cung cấp số liệu, thông tin về hàng hóa bị điều tra nhập khẩu vào Việt Nam theo đề nghị của CQĐT một cách đầy đủ, kịp thời;
b) Phối hợp với CQĐT cung cấp các số liệu, thông tin không định danh về số lượng, khối lượng, trị giá hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu liên quan đến việc điều tra, áp dụng và xử lý các biện pháp phòng vệ thương mại theo yêu cầu của doanh nghiệp, hiệp hội ngành, nghề. Trình tự, thủ tục, chi phí, các trường hợp từ chối cung cấp thông tin và các nội dung khác thực hiện theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin.
c) Kể từ ngày quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại có hiệu lực, cơ quan hải quan có trách nhiệm cung cấp thông tin về khoản nộp thuế phòng vệ thương mại, khối lượng, số lượng, trị giá nhập khẩu của hàng hóa đang bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo đề nghị của Cơ quan điều tra.
Cơ quan Hải quan Việt Nam có tầm quan trọng then chốt trong việc hỗ trợ theo dõi, phát hiện các hành vi lẩn tránh thuế. Tổng cục Hải quan Việt Nam, với các đơn vị chức năng trực thuộc về thống kê hải quan, giám sát quản lý về hải quan, thuế xuất nhập khẩu và các Cục hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố có thể giúp phát hiện sớm hành vi lẩn tránh thuế thông qua thống kê, theo dõi số liệu xuất nhập khẩu hàng hoá đang bị áp thuế CBPG/CTC và cung cấp thông tin, số liệu liên quan cho Cục PVTM, giúp phát hiện, theo dõi và giám sát việc chấp hành các quyết định áp thuế chống lẩn tránh thuế.
Hiện nay, trong thực tiễn điều tra của Việt Nam, Tổng cục Hải quan đóng vai trò quan trọng và thường xuyên nhất bởi CQĐT trong mọi vụ việc đều cần đề nghị hải quan cung cấp số liệu nhập khẩu, cơ quan hải quan thu thuế và giám sát, quản lý việc doanh nghiệp chấp hành lệnh áp thuế (nộp thuế).
Bên cạnh đó, quy định về chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật PVTM và thuộc chức năng nhiệm vụ của CQĐT về PVTM nhưng những hành vi lẩn tránh khác (như khai báo hải quan sai, khai sai mô tả hàng hoá, xuất xứ hàng hoá …)- là các hành vi gian lận hải quan sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hải quan và cơ quan hải quan. Vì vậy, một mặt cần có sự tách bạch rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan liên quan nhưng mặt khác cũng vẫn cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này để phát hiện, xử lý vấn đề một cách hiệu quả vì có thể có sự liên quan lẫn nhau (ví dụ với EU, chức năng, nhiệm vụ của Vụ PVTM thuộc Tổng vụ Thương mại điều tra về chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC và Cơ quan chống gian lận Châu Âu- OLAF điều tra về gian lận hải quan và cùng thuộc Uỷ ban Châu Âu; với Úc: hành vi chuyển tải theo quy định về chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC thuộc phạm vi chức năng của Uỷ ban chống bán phá giá- ADC nhưng các hành vi khác như khai sai hải quan…sẽ thuộc phạm vi của cơ quan khác).
- Các đơn vị chuyên môn khác
+ Bộ Công Thương:
(i) Vụ Pháp chế (đóng vai trò là cơ quan đóng góp ý kiến về các nội dung liên quan đến pháp lý, trình tự thủ tục, diễn giải luật vì đây cũng là cơ quan đồng hành sát sao với Cục PVTM trong quá trình xây dựng các quy định pháp luật về PVTM);
(ii) Vụ Khoa học và Công nghệ, Cục Công nghiệp, Cục Hoá chất… (các đơn vị này sẽ có vai trò phối hợp tuỳ theo tính chất cụ thể của từng vụ việc liên quan đến sản phẩm cụ thể, khi đó Cục PVTM sẽ cần các ý kiến đóng góp của các đơn vị này ở góc độ chuyên môn quản lý, chức năng của các đơn vị, ví dụ khi cần xin ý kiến về sản phẩm thép sẽ cần lấy ý kiến Cục Công nghiệp, sản phẩm hoá chất sẽ phải lấy ý kiến Cục Hoá chất, về tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm sẽ phải lấy ý kiến Vụ Khoa học và Công nghệ….);
(iii) Vụ Chính sách thương mại và đa biên và các Vụ thị trường ngoài nước (Vụ Thị trường châu Âu, châu Mỹ; Vụ Thị trường châu Á Thái Bình Dương, châu Phi); Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài: trao đổi, chia sẻ thông tin về các thị trường liên quan cũng như ý kiến phản hồi của các nước đối tác bị ảnh hưởng bởi biện pháp chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC của Việt Nam.
[1] Được hiểu là giống với quy định của Úc, Thổ Nhĩ Kỳ: xuất khẩu thông qua nhà xuất khẩu có mức thuế thấp hơn hoặc không bị áp thuế -dàn xếp giữa các nhà xuất khẩu).