1.1. Cơ sở pháp lý
Quy định chính thức đầu tiên về chống lẩn tránh thuế của Hoa Kỳ là tại Mục 1321 của Đạo luật Thương mại liên ngành và Cạnh tranh 1988 (Omnibus Trade and Competitive Act) (Đạo luật Thương mại 1988) với tên gọi ‘Ngăn chặn việc lẩn tránh lệnh áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp’[2] (được pháp điển tại Mục 781 Đạo luật Thuế quan 1930, 19 U.S.C 1677j). Quy định này ra đời một mặt để theo kịp với quy định của EU về chống lẩn tránh thuế được thông qua vào năm 1987[3] và mặt khác là do quan ngại việc các nhà sản xuất châu Á tham gia vào các hành vi lẩn tránh thuế. Trước khi quy định này có hiệu lực, Cơ quan điều tra (CQĐT) Hoa Kỳ đã xử lý một số vụ việc chống lẩn tránh thuế mà không có quy định cụ thể về chống lẩn tránh thuế, thông qua việc mở rộng phạm vi ban đầu của lệnh áp thuế chống bán phá giá hiện tại.
Mục 1321 cấm 4 hành vi lẩn tránh, bao gồm: lẩn tránh đối với hàng hoá được hoàn thiện hoặc lắp ráp ở Hoa Kỳ; hàng hoá được hoàn thiện hoặc lắp ráp ở nước ngoài; sự thay đổi nhỏ đối với hàng hoá và hàng hoá phiên bản mới.
Bên cạnh đó, các mục 1319, 1320 và 1323 cấm 3 loại lẩn tránh khác (mà không được đặt tên rõ ràng là ‘lẩn tránh’ theo Đạo luật này), bao gồm: lẩn tránh qua thay đổi giá của các dạng khác nhau của sản phẩm (fictious market), giám sát sản phẩm hạ nguồn và các sản phẩm có vòng đời ngắn.
Cùng với EU, Hoa Kỳ đã nỗ lực rất nhiều để đưa các quy định về chống lẩn tránh thuế vào Hiệp định ADA trong Vòng đàm phán Uruguay. Tuy nhiên, mặc dù một số Dự thảo tại GATT (như Dự thảo Dunkel 1991) có các quy định về chống lẩn tránh thuế, Hoa Kỳ đã không chấp nhận vì cho rằng lời văn không đủ mạnh. Do đó, các quy định này đã không được đưa vào lời văn cuối cùng của ADA. Vì vậy, chỉ có Quyết định cấp Bộ trưởng về Chống lẩn tránh thuế được thông qua,[4] mà Hoa Kỳ coi là một tuyên bố cho phép sự công nhận tính pháp lý của các quy định về chống lẩn tránh thuế của mình. Sau khi thất bại trong việc đưa các quy định về chống lẩn tránh thuế tại các phiên đàm phán của Vòng Uruguay, Hoa Kỳ đã sửa đổi các quy định về chống lẩn tránh thuế tại Đạo luật Thương mại 1988 và bổ sung một số quy định mới vào Đạo luật về các Hiệp định Vòng Uruguay (URAA).[5] Nội dung của những quy định mới này bị ảnh hưởng bởi Dự thảo Dunkel. Các quy định mới nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi các quy định về chống lẩn tránh thuế tại Đạo luật Thương mại 1988. Vì vậy, hiện nay quy định của Hoa Kỳ về chống lẩn tránh thuế bao gồm các Mục 1319, 1320, 1321 và 1323 của Đạo luật Thương mại 1988 và phiên bản sửa đổi tại Mục 230 URAA.
Cụ thể, Đạo luật Thương mại 1988 bao gồm 4 mục liên quan đến các biện pháp chống lẩn tránh thuế:
- Mục 1319 (“fictious market”) quy định về hành vi lẩn tránh thuế CBPG mà các nhà xuất khẩu/sản xuất cố gắng xoá bỏ biên độ phá giá bằng cách tạo ra giá giả tạo cho sản phẩm một cách tạm thời (không áp dụng với lẩn tránh thuế CTC).
- Mục 1320 “giám sát sản phẩm hạ nguồn” quy định hệ thống giám sát đối với lẩn tránh hạ nguồn lệnh áp thuế CBPG, CTC.
- Mục 1321 là quy định chính của Đạo luật này về chống lẩn tránh thuế CBPG, CTC, quy định 4 loại hành vi lẩn tránh: lẩn tránh thượng nguồn, lẩn tránh qua nước thứ 3 và lẩn tránh sản phẩm (bao gồm thay đổi nhỏ sản phẩm và sản phẩm phiên bản sau).
- Mục 1323 quy định về “các sản phẩm có vòng đời ngắn’, mà trên thực tế là một loại quy định về việc các doanh nghiệp vi phạm nhiều lần (‘repeat corporate offender’) nhằm lẩn tránh thuế CBPG.
Vì vậy, có thể thấy quy định về chống lẩn tránh thuế CBPG của Hoa Kỳ bao gồm các nội dung quy định tại 4 Mục 1319, 1320, 1321, 1323 nêu trên; còn quy định về chống lẩn tránh thuế CTC chỉ được nhắc đến ở 2 Mục 1320, 1321.
Sau Vòng đàm phán Uruguay, một số quy định đã được sửa đổi tại URAA liên quan đến một số tiêu chí về lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh thông qua nước thứ 3. Những quy định còn lại của Đạo luật Thương mại 1988 vẫn có hiệu lực.
Nội dung cụ thể sẽ được phân tích dưới đây.
Mục 1319 quy định về lẩn tránh thông qua thay đổi giá các dạng khác nhau của sản phẩm. Hành vi này liên quan đến việc áp thuế CBPG của Hoa Kỳ. Cơ quan có thẩm quyền chỉ ban hành một mức thuế dự tính, mức thuế cuối cùng sẽ được áp theo biên độ thực tế xảy ra khi rà soát hàng năm. (Hoa Kỳ áp thuế theo cơ chế hồi tố). Nghĩa là có khả năng, thậm chí là sau khi ban hành lệnh áp thuế, nhà xuất khẩu/sản xuất có thể giảm biên độ phá giá và do đó giảm mức thuế cuối cùng. Cần lưu ý là có sự chênh lệch 1 năm giữa việc ra quyết định áp thuế và việc ban hành lệnh áp thuế. Điều này để khuyến khích các nhà sản xuất/xuất khẩu giảm biên độ phá giá - như mục tiêu của luật chống bán phá giá theo đuổi.
Tuy nhiên, tình hình sẽ trở nên phức tạp nếu liên quan đến ý định giả tạo của nhà xuất khẩu/sản xuất về việc giảm tạm thời biên độ phá giá nhưng mục đích chính là để lẩn tránh thuế. Để đạt được mục tiêu này, nhà xuất khẩu/sản xuất có thể áp dụng các phương pháp bằng cách giảm giá bán tại thị trường trong nước hoặc tận dụng các dạng khác nhau của sản phẩm nếu đó là sản phẩm có nhiều hình dạng (ví dụ thuốc dưới dạng viên, bột) (với sản phẩm có nhiều hình dạng, Mục 1319 sẽ điều chỉnh).
Một số yếu tố cần xem xét khi áp dụng Mục 1319 trên thực tế. Thứ nhất, bằng chứng về việc thành lập một thị trường giả tạo được phát hiện thông qua việc: (i) thay đổi giá của các dạng khác nhau của cùng 1 sản phẩm (giá trong nước của dạng sản phẩm bị áp thuế thì giảm và đồng thời giá của dạng sản phẩm khác lại tăng); (ii) sự thay đổi về giá xảy ra sau khi ban hành lệnh áp thuế; (iii) mục đích của việc thay đổi giá là làm giảm biên độ phá giá.
Cơ sở của việc áp dụng hành vi này liên quan đến lý do kinh tế nhằm ứng phó với hành vi phá giá gây thiệt hại. Nhà xuất khẩu/sản xuất có thể chấp nhận giảm giá bán sản phẩm xuất khẩu trong khi bù lỗ bằng cách tận dụng tình trạng độc quyền tại thị trường trong nước. Tương tự như vậy, bằng việc thực hiện hành vi ‘thị trường giả tạo’ (fictious market), nhà sản xuất/xuất khẩu tận dụng việc thay đổi giá trong các dạng sản phẩm khác nhau để giảm biên độ phá giá.
Một số tiêu chí và thủ tục chi tiết được quy định để xử lý vấn đề này. ‘Linh kiện’ (component part) và ‘sản phẩm hạ nguồn’ là hai thuật ngữ được giải thích cụ thể tại Mục này. ‘Linh kiện’ được định nghĩa là linh kiện bị áp thuế CBPG/CTC ở mức ít nhất 15% trong giai đoạn 5 năm trước đó. ‘Sản phẩm hạ nguồn’ được định nghĩa là bất kỳ sản phẩm nào được sản xuất từ các linh kiện và được nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Theo Mục 1320, có 3 bước cấu thành thủ tục giám sát sản phẩm hạ nguồn:
- Bước đầu tiên là ‘gửi đơn yêu cầu giám sát’. Một nhà sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm là ‘bộ phận cấu thành’ hoặc ‘sản phẩm hạ nguồn’, thì được quyền yêu cầu ‘giám sát sản phẩm hạ nguồn’. Trong đơn yêu cầu giám sát, bên nguyên đơn phải nêu cụ thể tại sao họ nghi ngờ rằng việc áp thuế CBPG/CTC đã dẫn tới hành vi lẩn tránh thông qua sản phẩm hạ nguồn. DOC, sau khi nhận đơn yêu cầu, sẽ ban hành quyết định liệu có chấp nhận hay không. Nếu DOC xác nhận rằng việc tăng nhập khẩu sản phẩm hạ nguồn liên quan tới việc áp thuế, DOC sẽ yêu cầu ITC đưa ra báo cáo giám sát theo quý. Một số yếu tố được xem xét khi DOC xác định liệu có cần giám sát hay không bao gồm (i) trị giá của linh kiện; (ii) mức độ mà linh kiện được chuyển đổi (transform); (iii) và mối quan hệ giữa nhà sản xuất linh kiện và nhà sản xuất sản phẩm hạ nguồn.
- Bước thứ 2 là việc “giám sát bởi ITC’. Tại giai đoạn này, ITC, đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát. Khi lượng nhập khẩu sản phẩm gia tăng hơn 5% trong bất kỳ quý nào so với quý trước, ITC sẽ ‘phân tích sự gia tăng trong bối cảnh điều kiện kinh tế chung trong lĩnh vực sản phẩm’. ITC sau đó không chỉ ban hành báo cáo hàng quý tới DOC mà cũng công bố công khai.
- Bước cuối cùng là ‘hành động trên cơ sở báo cáo giám sát’. DOC sẽ rà soát các báo cáo của ITC và xem xét liệu có cần phải khởi xướng một vụ việc điều tra CBPG/CTC hay không. Nếu, dựa trên thông tin của các báo cáo cho thấy lượng nhập khẩu hàng hoá hạ nguồn tăng, thì sẽ khởi xướng điều tra CBPG/CTC.
Vấn đề chính của hệ thống rà soát liên quan đến sản phẩm hạ nguồn là các điều kiện để khởi xướng vụ điều tra CBPG/CTC theo Điều 5.1, 5.2 và 5.6 của ADA và Điều 11.2, Điều 11.6 của SCMA đã bị thay đổi.[6] Theo các quy định này, việc khởi xướng điều tra CBPG/CTC phải tuân thủ các tiêu chí sau, bao gồm: (i) ngành sản xuất liên quan đã nộp đơn kiện và đơn kiện có bằng chứng về phá giá/trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa việc phá giá/trợ cấp bị cáo buộc và thiệt hại của sản phẩm tương tự; và (ii) cơ quan có thẩm quyền được quyền tự điều tra nếu có đủ bằng chứng về phá giá/trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả. Do đó, điều kiện chính để có thể khởi xướng vụ việc CBPG/CTC là có bằng chứng về phá giá/trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả. Tuy nhiên, hệ thống giám sát hiện tại liên quan đến sản phẩm hạ nguồn bị cho là vi phạm các quy định ADA/SCMA vì ngành sản xuất trong nước được quyền nộp đơn yêu cầu giám sát là các nhà sản xuất linh kiện hoặc sản phẩm hạ nguồn. Do đó, bên cạnh ngành sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm hạ nguồn, ngành sản xuất mà sản xuất linh kiện cấu thành cũng được quyền nộp hồ sơ. Tuy nhiên, theo ADA/SCMA, ngành sản xuất trong nước có liên quan thường là ngành sản xuất sản xuất sản phẩm tương tự. Do đó, câu hỏi ở đây là liệu linh kiện có thuộc sản phẩm tương tự của sản phẩm hạ nguồn hay không. Hơn nữa, do không yêu cầu bằng chứng về phá giá/trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả của sản phẩm hạ nguồn hoặc linh kiện, tiêu chí duy nhất để khởi xướng vụ điều tra CBPG/CTC theo Mục này dựa trên báo cáo của ITC để cho thấy có sự gia tăng sản phẩm hạ nguồn hay không. Rõ ràng là điều này không được quy định tại ADA/SCMA và do đó mâu thuẫn với các điều kiện khởi xướng vụ việc CBPG/CTC.
Hơn nữa, quy định này chuyển trách nhiệm cung cấp bằng chứng để khởi xướng vụ việc từ nguyên đơn sang cơ quan có thẩm quyền, điều này sẽ dẫn tới hàng loạt các thủ tục và phân tích kinh tế phức tạp liên quan tốn kém về công sức, tiền của và thời gian. Ngoài ra, các quyết định giám sát này không bị rà soát tư pháp. Do kết luận của cơ quan có thẩm quyền sẽ có tính chung thẩm, vì vậy, có khả năng sẽ dẫn tới sự thiên vị với lợi ích của ngành sản xuất trong nước hơn so với nhà xuất khẩu/sản xuất nước ngoài.
- Mục 1321: lẩn tránh thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp
+ Mục 1321(a) lẩn tránh thượng nguồn (‘hàng hoá được gia công hoặc hoàn thiện ở Hoa Kỳ’). Một giao dịch sẽ được coi là lẩn tránh thượng nguồn nếu (i) sản phẩm được lắp ráp là cùng loại với sản phẩm chịu lệnh áp thuế; (ii) sản phẩm được lắp ráp được hoàn thiện hoặc lắp ráp ở Hoa Kỳ từ những linh kiện được sản xuất ở một nước chịu lệnh áp thuế; và (iii) sự khác nhau giữa trị giá của sản phẩm được lắp ráp và các linh kiện được nhập khẩu là nhỏ. Bên cạnh đó, có 3 yếu tố khác cần được xem xét, bao gồm (i) xu hướng thương mại; (ii) liệu doanh nghiệp lắp ráp có liên quan tới nhà sản xuất các linh kiện hay không; và (iii) liệu việc nhập khẩu các linh kiện có tăng sau khi áp lệnh áp thuế hay không.
+ Mục 1321(b) quy định về việc lẩn tránh thông qua nước thứ 3, được gọi là ‘hàng hoá được hoàn thiện hoặc lắp ráp ở các nước ngoài khác’. Tiêu chí để xác định giống với những tiêu chí ở trên liên quan đến việc lẩn tránh thượng nguồn.
Sự khác biệt giữa lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh qua nước thứ 3
|
Lẩn tránh thượng nguồn |
Lẩn tránh qua nước thứ 3 |
Hoạt động lắp ráp |
tại Hoa Kỳ |
ở một nước thứ 3 |
Hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ |
linh kiện, có thể được lắp ráp sau đó |
thành phẩm |
Lệnh áp thuế ban đầu |
mở rộng cho các linh kiện hoặc sản phẩm chưa hoàn thiện/bán thành phẩm |
mở rộng cho sản phẩm được lắp ráp từ nước thứ 3 |
xem xét liệu các biện pháp được thực hiện có phù hợp để ngăn chặn hành vi lẩn tránh |
Không cần |
Có (xem xét thêm về cả lợi ích của nước xuất khẩu và nước thứ 3) à sự quan ngại đối với việc cơ quan quản lý có đủ thẩm quyền để đưa ra đánh giá chính xác hơn nhưng linh hoạt hơn trong cuộc điều tra mà có xem xét và cân đối lợi ích của các bên liên quan khác nhau trong vụ việc. |
Sau vòng đàm phán Uruguay, Hoa Kỳ đã sửa đổi một số tiêu chí đối với các quy định chống lẩn tránh thuế của mình tại Đạo luật Thương mại 1988 thông qua Đạo luật Các Hiệp định về vòng đàm phán Uruguay (URAA). Những thay đổi này chủ yếu liên quan đến lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh qua nước thứ 3 để sửa những lỗ hổng pháp lý:
+ Trong trường hợp lẩn tránh qua nước thứ 3, yêu cầu tại Đạo luật 1988 về sự khác biệt “nhỏ” giữa trị giá của hàng lắp ráp và linh kiện nhập khẩu là không đủ để ngăn chặn các hành vi lẩn tránh ví dụ như hoạt động lắp ráp ở nước thứ 3 là nhỏ trong khi lượng linh kiện mua từ những nguồn khác là lớn. Ngược lại, tiêu chí mới cho lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh qua nước thứ 3 tại URAA nhấn mạnh rằng: (i) quá trình (process) của hoạt động lắp ráp hoặc sản xuất ở Hoa Kỳ hoặc ở một nước thứ 3 là nhỏ hoặc không đáng kể; (ii) trị giá của các linh kiện có xuất xứ từ nước chịu lệnh áp thuế cấu thành một phần đáng kể của trị giá của toàn bộ sản phẩm.
+ Nêu chi tiết 5 yếu tố phải xem xét khi xác định liệu một quá trình lắp ráp hoặc sản xuất tại Hoa Kỳ/nước thứ 3 có ‘nhỏ hoặc không đáng kể’ hay không, bao gồm: (i) mức độ đầu tư ở Hoa Kỳ/nước thứ 3, (ii) mức độ nghiên cứu và phát triển ở Hoa Kỳ/ nước thứ 3; (iii) bản chất của quá trình sản xuất ở Hoa Kỳ/nước thứ 3; (iv) mức độ các cơ sở sản xuất ở Hoa Kỳ/nước thứ 3; và (v) liệu trị giá của việc gia công ở Hoa Kỳ/nước thứ 3 có cấu thành một phần nhỏ trong trị giá sản phẩm bán ở Hoa Kỳ hay không.
+ Một điểm đáng lưu ý khi xem xét nếu quá trình gia công có ‘nhỏ hoặc không đáng kể’ hay không là liệu việc nhập khẩu các linh kiện có tăng sau khi cuộc điều tra lẩn tránh thuế được khởi xướng. Theo quy định cũ, yếu tố liên quan là liệu nhập khẩu có gia tăng sau khi lệnh áp thuế được ban hành. Điều này là do trước khi ban hành lệnh áp thuế, nhưng sau khi khởi xướng cuộc điều tra CBPG/CTC, vẫn có khả năng nhà xuất khẩu/sản xuất thiết lập hoạt động gia công nhằm mục đích lẩn tránh. Do đó, sự thay đổi trong quy định dẫn đến việc nhiều linh kiện sẽ bị điều tra hơn và các nhà xuất khẩu/sản xuất dễ bị áp biện pháp chống lẩn tránh hơn.
+ Sự thay đổi còn ở chỗ yêu cầu doanh nghiệp gia công và nhà sản xuất linh kiện phải có mối ‘liên kết’ (affiliated) (‘một nhóm, một công ty hoặc một tổ chức có mối quan hệ rất gần gũi với một công ty lớn khác’[7]), trong khi quy định cũ thì yêu cầu rằng họ có ‘liên quan’ (related) (‘có mối liên hệ ở một mức độ nào đó’)[8]. Sự thay đổi này đã khiến cho quy định chính xác, chặt chẽ và dễ hơn khi xem xét về mối quan hệ.
Tuy có một số thay đổi như vậy nhưng một số vấn đề liên quan đến quy định hiện tại của Hoa Kỳ về lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh bên thứ 3 như sau:
- Theo quy định hiện tại của ADA/SCMA, việc áp thuế CBPG/CTC cần phải thoả mãn các kết luận về phá giá/trợ cấp và thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định chống lẩn tránh thuế hiện tại của Hoa Kỳ, thuế CBPG/CTC có thể được mở rộng cho các linh kiện nhập khẩu và sản phẩm từ một nước thứ 3 mà không cần phải tiến hành một cuộc điều tra về phá giá/trợ cấp và thiệt hại, điều này bị cho là vi phạm quy định WTO. Cụ thể là, trong lẩn tránh thượng nguồn, quan ngại liên quan đến câu hỏi liệu linh kiện nhập khẩu và sản phẩm ban đầu chịu lệnh áp thuế có phải là hàng hoá tương tự hay không. Quan ngại liên quan đến lẩn tránh thông qua nước thứ 3 cũng là liệu các linh kiện (có xuất xứ từ nước phá giá/trợ cấp) mà chịu lệnh áp thuế mở rộng có gây thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước hay không. Quy định này của Hoa Kỳ do đó ngược với quy định CBPG/CTC WTO là chỉ trừng phạt phá giá/trợ cấp gây thiệt hại.
- Theo URAA, cơ quan điều tra có quyền rất rộng khi xử lý những điểm, thuật ngữ chưa rõ ràng tồn tại trong luật, ví dụ, “phần nhỏ’ (small proportion) là gì, có tiêu chuẩn nào áp cho thuật ngữ này không; mức độ đầu tư ở Hoa Kỳ/nước thứ 3 như thế nào thì được coi là không ‘nhỏ’ hoặc không ‘đáng kể’; mức độ nghiên cứu và phát triển như thế nào thì được coi là chấp nhận được để không bị áp biện pháp chống lẩn tránh thuế. Nếu không có hướng dẫn cụ thể, những vấn đề này sẽ chủ yếu dựa trên thẩm quyền rộng của cơ quan điều tra mà có thể dẫn tới những vấn đề khác khi xác định liệu một giao dịch có phải là lẩn tránh hay không. Điều này có thể được minh hoạ bởi quy định liên quan đến lẩn tránh thông qua nước thứ 3 mà yêu cầu DOC xem xét liệu hành động chống lẩn tránh thuế có phù hợp để ngăn chặn sự lẩn tránh lệnh áp thuế hay không.
Rõ ràng là DOC có quyền xem xét các yếu tố khác chứ không chỉ là những nội dung được quy định cụ thể trong pháp luật khi xử lý vấn đề về lẩn tránh thông qua nước thứ 3. Điều này có thể là do hành vi lẩn tránh thông qua nước thứ 3 liên quan đến quyền lợi của các bên liên quan trong nước khác nhau và sẽ có tác động lớn tới không chỉ các nhóm khác nhau mà toàn bộ nước nhập khẩu. Do đó, cơ quan có thẩm quyền phải tìm cách tốt nhất để cân đối các lợi ích khác nhau cho tất cả các bên liên quan. Thẩm quyền này, được thực hiện thông qua các thủ tục cụ thể, có thể tạo một khung linh hoạt cho cơ quan có thẩm quyền được tự do đưa ra biện pháp và đưa ra sự bảo hộ vững chắc cho các ngành sản xuất trong nước của mình. Theo đó, có thể nói rằng xu hướng bảo hộ có liên quan đến việc quy định thẩm quyền rộng cho cơ quan điều tra.
- Cuối cùng, yêu cầu ở cả trường hợp lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh thông qua nước thứ 3, liên quan đến mối quan hệ giữa doanh nghiệp lắp ráp và nhà sản xuất linh kiện, cũng có vấn đề. Yêu cầu này ý là nếu doanh nghiệp lắp ráp không có liên quan tới nhà sản xuất linh kiện, thì không thể diễn ra hành vi lẩn tránh. Tuy nhiên, hành vi lẩn tránh vẫn xảy ra kể cả khi hai bên này không có mối quan hệ gì. Do đó, những chi nhánh do công ty nước ngoài đầu tư dễ bị áp biện pháp chống lẩn tránh thuế do quy định này. Ngược lại, doanh nghiệp lắp ráp trong nước sẽ không bị áp biện pháp nếu đáp ứng yêu cầu về việc không có mối liên hệ. Điều này sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp lắp ráp trong nước có ưu thế hơn trong cạnh tranh, mặc dù có quy định của GATT về việc ‘đối xử quốc gia’.[9]
+ Mục 1321 (c) quy định về các hành vi liên quan đến việc thay đổi nhỏ về hình dạng hoặc kiểu dáng một sản phẩm nhằm mục đích lẩn tránh thuế CBPG/CTC. Quy định này cho phép cơ quan có thẩm quyền xác định liệu có cần áp biện pháp chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC với hàng hoá được thay đổi nhằm mục đích lẩn tránh thuế CBPG/CTChay không.
Theo quy định này, các sản phẩm phiên bản sau có thể cũng thuộc phạm vi áp dụng của lệnh áp thuế CBPG/CTC nếu nhà xuất khẩu có ý định lẩn tránh thuế. Một sản phẩm được coi là sản phẩm phiên bản sau nếu (i) có các đặc điểm vật lý chung giống với sản phẩm chịu lệnh áp thuế (sản phẩm ban đầu); (ii) đáp ứng cùng một mong muốn cho người tiêu dùng cuối cùng như sản phẩm ban đầu; (iii) có cùng công dụng cuối cùng như sản phẩm ban đầu; (iv) có cùng kênh thương mại giống sản phẩm ban đầu; và (v) được quảng cáo và bày bán theo cách giống như sản phẩm ban đầu.
Có hai tình huống liên quan đến sản phẩm phiên bản sau: (1) một sản phẩm được coi là sản phẩm phiên bản sau mặc dù nằm khác nhóm phân loại thuế hải quan (HS) mà không được nêu tại đơn kiện và cơ quan điều tra không biết được: (2) một sản phẩm có thêm các chức năng vẫn bị coi là sản phẩm phiên bản sau khi (i) mục đích sử dụng chính của sản phẩm không phụ thuộc vào các chức năng bổ sung này; và (ii) chi phí để thêm các chức năng bổ sung này chiếm một tỷ lệ không lớn so với tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm.
Vấn đề liên quan đến hành vi lẩn tránh sản phẩm (sản phẩm thay đổi nhỏ và sản phẩm phiên bản sau) cũng giống như vấn đề liên quan đến lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh thông qua nước thứ 3, đó là thẩm quyền rộng của cơ quan điều tra và khả năng vi phạm ADA/SCMA.
- Mục 1323: sản phẩm vòng đời ngắn (áp với lẩn tránh thuế CBPG, không áp với lẩn tránh thuế CTC)
Mục này quy định chi tiết các thủ tục đối với việc lẩn tránh thuế chống bán phá giá và đưa ra định nghĩa đối với một số thuật ngữ cụ thể.
Mục 1323 quy định rằng một nhà sản xuất trong nước mà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc sản phẩm trực tiếp cạnh tranh với ‘sản phẩm có vòng đời ngắn’ thì được quyền nộp đơn tới ITC. ITC do đó phải xây dựng một danh mục sản phẩm bao gồm các sản phẩm mà đang chịu hơn 2 lệnh áp thuế trong giai đoạn 8 năm trước thời điểm đơn kiện được nộp. Sau đó, ITC thông báo để các bên liên quan có cơ hội trình bày ý kiến. ITC sẽ ra quyết định về việc liệu có xây dựng danh mục sản phẩm không sau khi tổ chức một phiên tham vấn nếu được yêu cầu. Sau khi xây dựng danh mục sản phẩm, ITC có thể sửa đổi phạm vi của danh mục này vào bất kỳ lúc nào, nếu cần thiết, mà không cần có đơn kiện của nguyên đơn.
Thuật ngữ ‘sản phẩm có vòng đời ngắn’ tại Mục 1323 được định nghĩa là ‘có khả năng trở nên lạc hậu trong vòng 4 năm, do sự tiến bộ của kỹ thuật, sau khi sản phẩm được bán thương mại’. Những thuật ngữ khác như ‘doanh nghiệp vi phạm lần 2’, ‘doanh nghiệp vi phạm nhiều lần’ cũng được định nghĩa ở các quy định tương ứng (các sản phẩm có vòng đời khác nhau thì sẽ phải tuân thủ các thủ tục khác nhau). Theo đó, ‘doanh nghiệp vi phạm lần 2’ để chỉ nhà sản xuất mà đã được nêu tên tại 2 quyết định áp thuế, trong khi ‘doanh nghiệp vi phạm nhiều lần’ để chỉ các doanh nghiệp được nêu ở từ 3 quyết định áp thuế trở lên.
Mục đích của việc xây dựng danh mục sản phẩm là để xem xét liệu một sản phẩm bị điều tra có thuộc ‘sản phẩm có vòng đời ngắn’. Mục 1323 quy định các sản phẩm có vòng đời khác nhau và các đối tượng doanh nghiệp khác nhau (vi phạm 2 lần, vi phạm nhiều lần) sẽ phải tuân thủ các thủ tục điều tra CBPG khác nhau. Do đó, DOC sẽ tiến hành điều tra rút gọn nếu sản phẩm bị nghi ngờ này thuộc phạm vi ‘sản phẩm có vòng đời ngắn’. Đối với đối tượng đã vi phạm 2 lần, giai đoạn điều tra là 120 ngày, so với 160 ngày trong điều tra CBPG thông thường. Đối với đối tượng vi phạm nhiều lần, giai đoạn này sẽ rút xuống 100 ngày. Mục 1323, trên thực tế, quy định một hệ thống giám sát hành vi lẩn tránh đặc biệt này. Nghĩa là, sản phẩm bị nghi ngờ trước tiên sẽ bị đưa vào hệ thống giám sát, tuy nhiên, nếu nó thuộc danh mục ‘sản phẩm có vòng đời ngắn’ thì sẽ bị điều tra đặc biệt (rút gọn). Nếu không thì sẽ áp thủ tục điều tra CBPG thông thường.
Vấn đề quan ngại chính với ‘sản phẩm có vòng đời ngắn’ là liệu các thủ tục liên quan có bị làm phức tạp hoá và liệu cơ chế điều tra rút ngắn có phù hợp với 1 số đối tượng hay không, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, mục 1323 chủ yếu đáp ứng quyền lợi của ngành sản xuất trong nước, do đó có một số tác động đối với xu hướng bảo hộ tại quy định pháp luật của Hoa Kỳ.
Cơ quan có thẩm quyền điều tra các vụ việc chống lẩn tránh thuế là Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại quốc tế (ITC), trong đó DOC đóng vai trò chính trong khi ITC chỉ đưa ra ý kiến liên quan đến một số vấn đề.
Tại DOC, đơn vị chịu trách nhiệm điều tra là Vụ Thực thi và Tuân thủ (Enforcement and Compliance- E&C) thuộc Tổng vụ Quản lý Thương mại Quốc tế. Trong đó cơ cấu tổ chức của Vụ Thực thi và Tuân thủ gồm Vụ trưởng (Assistant Secretary), 01 Phó Vụ trưởng thường trực, 01 Văn phòng hỗ trợ điều tra, 02 Phó Vụ trưởng phụ trách 2 lĩnh vực: (i) điều tra CBPG/CT và (ii) chính sách, đàm phán. Tại mỗi lĩnh vực có các phòng chuyên môn khác nhau: (i) Lĩnh vực điều tra có 8 Phòng điều tra, 01 Phòng Đào tạo, 01 Phòng Quan hệ với Hải quan; (ii) Lĩnh vực chính sách, đàm phán: 01 Phòng chính sách, 01 Phòng Chính sách và đàm phán Hiệp định thương mại, 01 Phòng Đàm phán và tuân thủ Hiệp định thương mại, 01 Phòng Kế toán.[10]
Trong vụ việc điều tra CBPG/CTC, DOC là cơ quan chịu trách nhiệm điều tra liệu có hành vi phá giá, trợ cấp hay không và tính toán biên độ phá giá, trợ cấp trong khi ITC là cơ quan chịu trách nhiệm điều tra liệu ngành sản xuất trong nước có bị thiệt hại hay không. Nếu một trong hai cơ quan này ra kết luận phủ định- không có phá giá/trợ cấp hoặc không có thiệt hại- thì vụ việc sẽ được chấm dứt.
- Khởi xướng điều tra: Mục 1321 (e) quy định về thủ tục chung khi điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC.[11] Một cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC sẽ được khởi xướng nếu ngành sản xuất trong nước liên quan nộp đơn kiện và cung cấp bằng chứng đầy đủ về việc xảy ra hành vi lẩn tránh. Sau khi nhận đơn, DOC sẽ nghe các ý kiến của các bên liên quan về việc liệu họ ủng hộ hay phải đối đơn kiện. Một thông báo sẽ được ban hành tại Công báo Liên bang nếu vụ việc được khởi xướng bởi DOC. DOC cũng có thể tự khởi xướng điều tra kể cả khi không có đơn kiện trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc tự khởi xướng sẽ phụ thuộc vào việc liệu bằng chứng có đủ để cho thấy có hành vi lẩn tránh hay không.
- Bảng câu hỏi: Sau khi cuộc điều tra được khởi xướng, các bên liên quan sẽ được cung cấp bảng câu hỏi để cung cấp thông tin liên quan về các hành vi lẩn tránh. Những nguồn khác như tài liệu chính thức cũng có thể cung cấp thông tin phù hợp cho DOC. Một quyết định tạm thời sẽ được ban hành nếu DOC ra kết luận. Tuy nhiên, bên liên quan có thể tiếp tục cung cấp bằng chứng và đưa ra quan điểm hoặc yêu cầu tranh tụng chính thức. Đồng thời, DOC sẽ thông báo với ITC nếu dự định mở rộng biện pháp áp thuế CBPG/CTC ban đầu cho một sản phẩm mới.
Mặt khác, ITC có thể yêu cầu tham vấn với DOC nếu cần thiết. Việc tham vấn này sẽ cho phép ITC quyết định liệu kết luận hiện hành về thiệt hại của lệnh áp thuế ban đầu có vấn đề gì không nếu DOC mở rộng lệnh áp thuế hiện hành cho sản phẩm mới. Trong vòng 60 ngày, ITC sẽ phải cung cấp bản ý kiến bằng văn bản cho DOC liên quan đến vấn đề này. Sau khi nhận được ý kiến của ITC, DOC sẽ đưa ra kết luận cuối cùng (công bố công khai) về thông tin được cung cấp bởi các bên liên quan và ý kiến của ITC.
Theo quy định, một cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế phải được thực hiện trong vòng 300 ngày sau khi khởi xướng. Các quyết định của DOC về các biện pháp chống lẩn tránh thuế bị rà soát tư pháp (judicial review). Bên cạnh đó, Hoa Kỳ áp dụng một hệ thống đặc biệt (unique) liên quan đến thu thuế. Khi DOC ra kết luận cuối cùng khẳng định có lẩn tránh thuế, thuế sẽ không bị áp ngay lập tức sau quyết định này mà yêu cầu một khoản đảm bảo (security) (thường dưới dạng đặt cọc bằng tiền mặt) đối với hàng hoá bị nghi ngờ. Một cuộc rà soát hành chính (administrative review) để tính toán mức thuế cuối cùng chính thức sẽ được tiến hành sau khi hoàn thành cuộc điều tra. Do đó, việc tính toán và thu thuế chính thức được thực hiện sau cuộc rà soát hành chính này. Tuy nhiên, mức thuế chính thức được tính toán phụ thuộc vào mức độ phá giá/trợ cấp của giai đoạn rà soát.[12]
Cần lưu ý là thủ tục chung này chỉ áp dụng cho các vụ việc điều tra chống lẩn tránh liên quan đến hành vi lẩn tránh thượng nguồn (nhưng không bao gồm lắp ráp hoặc hoàn thiện nhỏ), lẩn tránh thông qua nước thứ 3 và sản phẩm phiên bản sau. Những hành vi lẩn tránh khác sẽ phải tuân theo các thủ tục cụ thể.
Lấy ý kiến từ ITC liên quan đến kết luận thiệt hại là một giai đoạn đặc biệt trong thủ tục chung. Tuy nhiên, đây không phải là kết luận về thiệt hại như được yêu cầu bởi ADA/SCMA. Theo đó, mặc dù thực tế là cả phạm vi của hàng nhập khẩu bị nghi ngờ và của ngành sản xuất trong nước ban đầu thay đổi, không có yêu cầu nào trong luật quy định về việc phải ra kết luận về thiệt hại trong một cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế. Tuy nhiên, theo ADA/SCMA, cần phải có kết luận mới về thiệt hại đối với hàng nhập khẩu mới nếu áp/mở rộng thuế. Rõ ràng là thuế CBPG, CTC ban đầu là phụ thuộc vào phạm vi của hàng nhập khẩu và của ngành sản xuất trong nước và do đó là phụ thuộc vào kết luận ban đầu về phá giá/trợ cấp và thiệt hại. Vì vậy, sẽ có vấn đề nếu xác định có lẩn tránh và do đó là tiến hành các biện pháp chống lẩn tránh (mở rộng thuế CBPG/CTC đối với sản phẩm bị nghi ngờ) lại sử dụng kết luận ban đầu về phá giá/trợ cấp và thiệt hại. Trên thực tế, tình hình sẽ tệ hơn trong hầu hết các vụ khi ITC cho rằng không cần tham vấn với DOC về vấn đề thiệt hại.[13]
Có 3 thủ tục đặc biệt trong hệ thống chống lẩn tránh thuế của Hoa Kỳ hiện hành, bao gồm “điều tra phạm vi” (scope inquiry), “hệ thống giám sát” với sản phẩm hạ nguồn và “thủ tục rút gọn” với sản phẩm có vòng đời ngắn. Do hai vấn đề sau đã được trình bày ở trên, mục này chỉ tập trung vào thủ tục “điều tra phạm vi”.
Điều tra phạm vi tại Hoa Kỳ bắt đầu trước khi Đạo luật Thương mại 1988 có hiệu lực. DOC, trên thực tế, thường trực tiếp đưa sản phẩm mới mà bị nghi ngờ vào phạm vi sản phẩm ban đầu đang chịu lệnh áp thuế hiện hành. Các quy định về chống lẩn tránh thuế tại Đạo luật Thương mại 1988 chỉ luật hoá các thực tiễn trước đây của DOC.
Tuy nhiên, các quy định về chống lẩn tránh thuế tại Đạo luật Thương mại 1988 không đề cập một cách rõ ràng khái niệm về ‘điều tra phạm vi’. Những diễn giải tương đối chính thống từ quan chức Hoa Kỳ liên quan đến vấn đề này được nêu tại các tài liệu WTO do chính phủ Hoa Kỳ cung cấp để trả lời các câu hỏi từ các thành viên WTO khác về vấn đề lẩn tránh thuế.[14] Theo những tài liệu này, có 2 nhóm thủ tục chống lẩn tránh thuế theo thông lệ của Hoa Kỳ về CBPG/CTC, bao gồm ‘điều tra phạm vi’ và ‘điều tra chống lẩn tránh thuế’. Theo những tài liệu này, thủ tục nào được tiến hành hoàn toàn do nguyên đơn quyết định. DOC không phải là bên quyết định sử dụng thủ tục nào mà chỉ thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.
Thông thường, trên thực tế các sản phẩm có sự thay đổi nhỏ thường phải chịu điều tra về phạm vi. Điều này là do cách thức lẩn tránh mà các nhà sản xuất/xuất khẩu tiến hành trong các vụ việc liên quan đến thay đổi nhỏ do mô tả ban đầu của sản phẩm trong vụ việc thường là chung chung hoặc hẹp, do đó dẫn đến việc các nhà xuất khẩu/sản xuất thay đổi nhỏ về hình dạng hoặc bề ngoài của sản phẩm để sản phẩm nằm ngoài phạm vi ban đầu, do đó có thể lẩn tránh thuế. Theo tình huống này, cơ quan quản lý có thể khởi xướng điều tra phạm vi để đưa sản phẩm mới vào phạm vi bị áp thuế bằng cách thay đổi mô tả sản phẩm. Điều tra phạm vi do đó giống như là quá trình sửa hoặc cập nhật phạm vi sản phẩm.
Điều tra phạm vi chủ yếu tập trung vào câu hỏi là liệu một sản phẩm nhập khẩu cụ thể có thuộc phạm vi lệnh áp thuế ban đầu, trong khi điều tra chống lẩn tránh nhắm đến việc liệu lệnh áp thuế hiện tại có bị lẩn tránh hay không. Bên cạnh đó, điều tra phạm vi không liên quan đến vấn đề thiệt hại. Do đó, việc lấy ý kiến của ITC không phải là một nghĩa vụ trong điều tra phạm vi. Mà chỉ là trong trường hợp ngoại lệ mới cần lấy ý kiến, nghĩa là, DOC không cần phải thông báo và tham vấn với ITC trong điều tra phạm vi. Điều này đối lập với điều tra chống lẩn tránh thuế. Trong một cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế, trước khi ra quyết định cuối cùng, DOC phải thông báo ITC nếu DOC dự định ra kết luận khẳng định có lẩn tránh thuế, và ITC sau đó có thể yêu cầu tham vấn với DOC về vấn đề thiệt hại. Mặc dù trong hầu hết các vụ việc trên thực tế ITC không tham vấn với DOC về vấn đề thiệt hại, đây là một quy trình chính thức được quy định trong luật như là một phần của điều tra chống lẩn tránh thuế.
Một vấn đề liên quan đến điều tra phạm vi là liệu một vấn đề phạm vi có thuộc một mục của lẩn tránh. Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng các câu hỏi về chống lẩn tránh đôi khi được coi là vấn đề phạm vi chứ không phải là vấn đề lẩn tránh. Tuy nhiên, mặt khác, theo như diễn giải của Hoa Kỳ về Đạo luật Thương mại 1988, phán quyết về phạm vi có thể được áp dụng cho các tình huống liên quan đến hoàn thiện hoặc lắp ráp hoặc thay đổi nhỏ, mà nằm ở mục 1321 có tiêu đề ‘ngăn chặn việc lẩn tránh lệnh áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp’ tại Đạo luật Thương mại 1988. Theo như diễn giải này thì rõ ràng là điều tra phạm vi thuộc mục lẩn tránh. Do đó, quan điểm của Hoa Kỳ về vấn đề này tương đối mơ hồ và mâu thuẫn. Một vấn đề khác liên quan đến điều tra phạm vi là liệu phán quyết phạm vi đó mà không có kết luận về thiệt hại mới có vi phạm ADA/SCMA không. Như đã trình bày ở trên, việc không xem xét lại kết luận phá giá/trợ cấp thiệt hại và biên độ phá giá/trợ cấp sẽ dễ dàng gây ra sự tranh cãi về việc liệu Hoa Kỳ có vi phạm các nghĩa vụ theo ADA/SCMA hay không.
Mặc dù có những khác biệt liên quan đến định nghĩa về hành vi lẩn tránh thuế và quy trình thủ tục điều tra áp dụng mở rộng biện pháp CBPG, CTC nhưng Hoa Kỳ quy định rằng hành vi sẽ không bị coi là lẩn tránh thuế trong trường hợp hành vi đó là hoạt động lắp ráp từ nước thứ 3. Vấn đề trừng phạt hành vi lẩn tránh thuế từ hoạt động lắp ráp từ bên thứ 3 liên quan đến quy định về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm bị áp dụng biện pháp CBPG, CTC. Nếu hoạt động lắp ráp tại nước thứ 3 không thay đổi nguồn gốc xuất xứ sản phẩm cuối cùng thì việc áp thuế CBPG, CTC vẫn diễn ra bình thường. Tuy nhiên, nếu hoạt động lắp ráp làm thay đổi nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm cuối cùng, hành vi lẩn tránh thuế có thể bị điều tra và áp dụng. Điều này lại không phù hợp với quy định của GATT 1994 (Điều VI.6 a):
“Không thành viên nào sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá hoặc thuế đối kháng đối với việc nhập khẩu bất kỳ sản phẩm nào từ lãnh thổ của thành viên khác trừ khi chứng minh được tác động của phá giá hay trợ cấp gây ra thiệt hại hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể đối với ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước”.
Ví dụ, giả định rằng công ty Y đang bị áp thuế CBPG/CTC đối với sản phẩm X từ nước A. Theo quy định tại GATT 1994, việc áp dụng biện pháp CBPG/CTC đối với sản phẩm X từ nước B là có thể, tuy nhiên phải trả qua cuộc điều tra CBPG/CTC. Theo quy định lẩn tránh thuế của EU và Hoa Kỳ, trong trường hợp lắp ráp tại nước thứ ba, lệnh CBPG (đối với EU, hành vi lắp ráp chỉ áp với biện pháp chống lẩn tránh thuế CBPG, không áp với lẩn tránh thuế CTC) có thể được mở rộng phạm vi áp dụng nếu các điều kiện như: sự thay đổi về xu hướng thương mại hay mối quan hệ tuần tự giữa hoạt động lắp ráp và việc áp dụng biện pháp CBPG được thỏa mãn.
Tuy nhiên, trong quy định nội luật về lẩn tránh thuế của Hoa Kỳ không yêu cầu thủ tục điều tra CBPG/CTC theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 của ADA hoặc Điều 11, Điều 12 của SCMA (về các giai đoạn điều tra, bằng chứng). Do đó, đối với hành vi lắp ráp tại nước thứ 3 sẽ không có cuộc điều tra CBPG/CTC, nếu tồn tại sự thay đổi đối với nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm bán phá giá/trợ cấp, việc mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp dựa trên cơ sở nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm được lắp ráp có thể vi phạm quy định của GATT 1994.
Một vấn đề khác liên quan đến mức độ phù hợp quy định của Hoa Kỳ đối với hành vi lẩn tránh thuế và quy định tại GATT 1994 đó là sự mở rộng phạm vi áp dụng thuế CBPG/CTC trong trường hợp hoạt động lắp ráp được tiến hành ngay tại Hoa Kỳ. Trường hợp này tương tự hoạt động lắp ráp tại nước thứ ba. Trên thực tế, theo luật của Hoa Kỳ, nhập khẩu linh kiện hoặc từng phần từ nước bị áp thuế CBPG/CTC và lắp ráp chúng tại thị trường nội địa có thể bị kết luận là hành vi lẩn tránh thuế khi hoạt động lắp ráp, về khía cạnh kinh tế, không liên quan đến quy trình sản xuất sản phẩm đó. Trong vụ việc mà hành vi lắp ráp được tiến hành tại nước thứ 3, Hoa Kỳ quy định các tiêu chí để xác định sự liên quan của hoạt động lắp ráp. Trong trường hợp lắp ráp tại Hoa Kỳ, vấn đề chính liên quan đến việc mở rộng lệnh áp thuế là sự mở rộng này có thể áp dụng đối với sản phẩm không phải là sản phẩm tương tự, thay vào đó là áp thuế cho các bộ phận, các phần của hàng hóa bán phá giá/trợ cấp. Như vậy, biện pháp áp dụng đối với sản phẩm về mặt kỹ thuật khác với sản phẩm phá giá/trợ cấp là không phù hợp với Hiệp định ADA.
2. Thực tiễn điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ[15] cho đến nay đã điều tra (659 vụ CBPG, 219 vụ CTC)[16] trong đó có 427 vụ việc CBPG[17], 122 vụ CTC đã áp thuế.
Hoa Kỳ đã tiến hành khoảng 30 vụ điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC đối với lệnh áp thuế dành cho Trung Quốc[18] (20 vụ), Canada[19] (1 vụ), Việt Nam (6 vụ), UAE[20] (1 vụ), Đài Loan[21] (1 vụ), Mexico[22] (1 vụ) và nhóm nhiều nước cùng liên quan (2 vụ).[23]
Đối với Việt Nam, Hoa Kỳ đã và đang tiến hành điều tra với các sản phẩm: cá tra, mắc áo bằng thép, thép chống ăn mòn, thép cán nguội. Phần lớn các vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế đối với hàng Việt Nam đều liên quan đến cáo buộc lẩn tránh thuế áp với Trung Quốc, đa phần liên quan đến hình thức lắp ráp tại một nước thứ ba (Việt Nam), lấy xuất xứ để xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Đối với vụ việc với sản phẩm mắc áo bằng thép, sau khi điều tra và áp thuế chống lẩn tránh thuế (mở rộng biện pháp CBPG, CTC của Trung Quốc và áp mức thuế bằng với mức thuế áp với Trung Quốc cho sản phẩm mắc áo từ Việt Nam), Hoa Kỳ đã điều tra CBPG, CTC với sản phẩm của Việt Nam. Điều này cho thấy, cần lưu ý vì mức thuế chống lẩn tránh sẽ bằng với mức thuế của vụ việc gốc và do đó hàng hoá bị điều tra chống lẩn tránh thuế có thể bị áp một mức thuế rất cao, ngoài ra, một vụ việc chống lẩn tránh thuế có thể dẫn tới một vụ việc điều tra CBPG/CTC.
Đáng lưu ý, trong 02 vụ điều tra năm 2016 đối với thép chống ăn mòn (CORE) và thép cán nguội (CRS) nhập khẩu từ Việt Nam, DOC đã kết luận rằng Việt Nam sử dụng thép cán nóng (HRC) và/hoặc CRS nhập khẩu từ Trung Quốc để làm nguyên liệu chính sản xuất sản phẩm bị điều tra. Tuy nhiên, việc sản xuất này không được coi là “chuyển đổi đáng kể” do quá trình sản xuất tại Việt Nam chỉ thêm một phần nhỏ trong tổng trị giá sản phẩm CORE và CRS xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Theo đó, DOC kết luận có sự lẩn tránh thuế và sản phẩm thép CORE và CRS xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng phải chịu mức thuế CBPG và CTC đang áp dụng với Trung Quốc. Đặc biệt, kết luận trên của DOC đi ngược lại với quyết định trong nhiều vụ việc trước đây của cơ quan này khi cho rằng sản xuất thép CORE và CRS từ HRC và/hoặc CRS là sự chuyển đổi đáng kể. Như vậy, trong 02 vụ việc này, DOC đã thay đổi kết luận mang tính tiền lệ trước đây để ra quyết định có sự lẩn tránh thuế. Bên cạnh đó, do quy định/thông lệ của Hoa Kỳ là sẽ áp mức thuế chống lẩn tránh chung cho tất cả các doanh nghiệp dù doanh nghiệp có hợp tác hay không hợp tác vì vậy, các doanh nghiệp hợp tác sẽ rất thiệt và không được hưởng mức thuế thấp hơn kể cả họ có hợp tác.
Căn cứ kết luận trên của DOC, ngành sản xuất Hoa Kỳ đã nộp đơn đề nghị DOC khởi xướng điều tra 2 vụ việc tiếp theo nhằm vào nguyên liệu nhập khẩu từ Hàn Quốc và Đài Loan (khởi xướng 7/2018) trên cơ sở cáo buộc rằng khả năng Việt Nam sản xuất thép cán nóng là rất thấp và chủ yếu phải nhập khẩu nên các nhà sản xuất thép Đài Loan, Hàn Quốc đã tận dụng cơ hội để xuất khẩu ồ ạt thép cán nóng sang Việt Nam, thay thế cho thép cán nóng Trung Quốc. Trong hai vụ việc mới này, nguyên đơn đều viện dẫn đến kết luận cuối cùng của DOC trong hai vụ việc trước đây là quá trình sản xuất từ thép cán nóng nhập khẩu – nguyên liệu chính – sang CRS và CORE tại Việt Nam là “không đáng kể” và do đó có sự lẩn tránh thuế CBPG, CTC.
THS. Phạm Hương Giang
(Phòng Điều tra thiệt hại và tự vệ)
[1] Tham khảo Yanning Yu (2008).
[2] https://www.govtrack.us/congress/bills/100/hr4848/text.
[3] Quy định Hội đồng (EC) số 1761/87 O.J. 1987, L.167.
[4] Quyết định về chống lẩn tránh thuế, 15/12/1993.
[5] https://www.gpo.gov/fdsys/pkg/BILLS-103hr5110enr/pdf/BILLS-103hr5110enr.pdf.
[6] Điều 5.1 ADA: Trừ khi có qui định khác tại khoản 6 dưới đây, một cuộc điều tra để quyết định xem thực sự có tồn tại việc bán phá giá không cũng như quyết định mức độ và ảnh hưởng của trường hợp đang bị nghi ngờ là bán phá giá sẽ được bắt đầu khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh cho ngành sản xuất trong nước.
Điều 5.2 ADA: Đơn yêu cầu được nhắc đến tại khoản 1 sẽ bao gồm bằng chứng của: (a) việc bán phá giá, (b) sự thiệt hại theo cách hiểu của Điều VI của Hiệp định GATT 1994 và được diễn giải tại Hiệp định này và (c) mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được bán phá giá và thiệt hại đang nghi ngờ xảy ra.
Điều 5.6 ADA: 5.6 Trong trường hợp đặc biệt, nếu như các cơ quan có thẩm quyền quyết định bắt đầu một cuộc điều tra mặc dù không có đơn yêu cầu tiến hành điều tra của hay đại diện cho ngành sản xuất trong nước, các cơ quan này chỉ được tiến hành điều tra khi có đầy đủ các bằng chứng về việc phá giá về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả như được qui định tại khoản 2 để biện minh cho hành động khởi xướng điều tra.
[7] Từ điển Oxford về tiếng Anh hiện tại.
[8] Từ điển Oxford về tiếng Anh hiện tại.
[9] Điều III GATT về ‘đối xử quốc gia về việc đánh thuế và các quy định trong nước’. Quy định này liên quan đến nghĩa vụ đối xử quốc gia của các bên mà có ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách bên trong của chính phủ trong nước. Đối xử quốc gia quy định rằng cần phải đối xử tương tự với hàng nhập khẩu như với sản phẩm trong nước nếu đã nộp thuế nhập khẩu.
[10] https://www.trade.gov/org_charts/Enforcement-and-Compliance.pdf.
[11] G/ADP/IG/W/22 ngày 19/4/2000.
[12] G/ADP/IG/W/33 ngày 10/4/2001, Trả lời của Hoa Kỳ đối với các câu hỏi của Ai Cập về luật và thực thi luật chống lẩn tránh thuế của Hoa Kỳ.
[13] G/ADP/IG/W/28 ngày 26/10/2000, Trả lời của Hoa Kỳ đối với câu hỏi của Hong Kong.
[14] G/ADP/IG/W/34 ngày 10/4/2001 Trả lời các câu hỏi tiếp theo của Israel về tài liệu của Hoa Kỳ về lẩn tránh thuế và G/ADP/IG/W/22 19/4/2000 Tài liệu của Hoa Kỳ.
[15] Lưu ý: số liệu vụ việc được tính theo nước bị điều tra (ví dụ 1 vụ việc điều tra 3 nước thì sẽ được tính là 3 vụ) nên vụ việc thực tế sẽ ít hơn.
[16] https://www.wto.org/english/tratop_e/scm_e/CV_InitiationsByRepMem.pdf.
[17] https://www.wto.org/english/tratop_e/adp_e/AD_MeasuresByExpCty.pdf.
[18] Với nến sáp (2006), khăn giấy (2008, 2011, 2013), bàn ghế kim loại gấp (2009), mắc áo thép (2011), điện cực graphite (2012, 2013), thanh ren thép (2012), glycine (2012), túi dệt (2013), lò xo đệm không bọc (2014, 2015, 2018), túi nhựa PE (2013), nhôm ép (2017), thép chống ăn mòn (2018), thép cán nguội (2018), phụ kiện đường ống bằng thép hàn cacbon (2018)
[19] Tấm thép cacbon (2001)
[20] Tấm nhựa (2015)
[21] Túi nhựa PE (2014)
[22] Dây thép hợp kim và các bon (2012)
[23] Ống thép phi hợp kim hàn (Brazil, Mexico, Hàn Quốc, Đài Loan) (2011), ống thép hàn các bon (Đài Loan 2011), giấy không phủ (Úc, Brazil, Trung Quốc, Indonesia, Bồ Đào Nha 2017)