Kinh nghiệm sử dụng chính sách chống bán phá giá tại Ấn Độ

1. Chủ trương chính sách chống bán phá giá của Ấn Độ

Ấn Độ là một trong những nước sớm chú ý đến chính sách chống bán phá giá. Ngay từ đầu những năm 1980, Ấn Độ đã chủ trương sử dụng chính sách chống bán phá giá để hạn chế nhập khẩu và lần đầu tiên quy định trong luật là vào năm 1982 khi sửa đổi Luật Thuế quan 1975. Khi trở thành thành viên của WTO (1995), Ấn Độ đã sửa đổi các quy định của Luật Thuế quan và nội luật hóa các quy định cơ bản của Hiệp định ADA. Tuy nhiên, khác với nhiều nước như Mỹ và EU quy định chi tiết hầu hết các nội dung của chống bán phá giá, Ấn Độ thiên theo hướng để cho cơ quan có thẩm quyền quyết định mọi vấn đề, tất nhiên vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của Hiệp định ADA. Chính vì việc xác định các yếu tố, áp dụng các phương pháp tính, quyết định biện pháp chống bán phá giá phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nên kết quả điều tra dễ mang tính chủ quan.

Trên thực tế, cơ quan điều tra có kết luận khác nhau trong những vụ việc tương tự (trong vấn để xác định sản phẩm tương tự) hay mặc dù cơ quan điều tra kết luận đủ điều kiện để áp dụng biện pháp CBPG nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn không áp dụng biện pháp. Như vậy, không chỉ kết quả điều tra mà quyết định cuối cùng cũng phụ thuộc nhiều vào chủ quan của cơ quan có thẩm quyền (là các cơ quan thuộc chính phủ). Mặc dù vậy, Ấn Độ cũng là một trong những nước thực hiện điều tra và áp dụng biện pháp CBPG nhiều nhất, với một chính sách chống bán phá giá mang tính linh hoạt.

2. Hệ thống pháp luật và cơ quan thực thi chống bán phá giá của Ấn Độ

Các quy định về chống bán phá giá được cụ thể hóa trong văn bản có tên gọi là “Bộ quy tắc về Thuế quan xác định, đánh giá và áp dụng thuế chống bán phá giá hoặc thuế khác đối với hàng hóa bán phá giá và xác định thiệt hại” (sau đây gọi tắt là Bộ Quy tắc) vào năm 1985. Năm 1995 các quy định này đã được sửa đổi nhằm hài hòa hóa quy định trong nước với quy đinh của Hiệp định ADA. Bộ quy tắc này sau đó được sửa đổi vào các năm 1999 (Thông báo số 44/1999-NT Customs); 2001 (Thông báo số 28/2001-NT Customs), 2002 (Thông báo số 1/2002-NT Customs) và vào năm 2003 (Thông báo số 101/2003-NT Customs)[1] [33, tr. 13]. Điều đáng chú ý là Ấn Độ nội luật hóa toàn bộ nội dung Hiệp định ADA và do vậy, hệ thống pháp luật của Ấn Độ điều chỉnh về chống bán phá giá bao gồm Luật Thuế quan, Bộ quy tắc về Chống bán phá giá và Hiệp định ADA.

Theo quy định của các văn bản này, Chính phủ Ấn Độ sẽ là cơ quan quyết định việc áp dụng biện pháp CBPG. Chính phủ chỉ định một người, có chức vụ từ Thứ trưởng[2] trở lên phụ trách việc điều tra CBPG, gọi là Người được chỉ định (Designated Authority). Người được chỉ định cũng có nhiệm vụ kiến nghị lên Chính phủ việc áp dụng biện pháp CBPG. Người chỉ định sẽ lãnh đạo việc điều tra, thực hiện tại Ban Chống bán phá giá và các vấn đề liên quan (Directorate General of Anti-dumping and Allied Duties - DGAD) thuộc Cục Thương mại, Bộ Công Thương Ấn Độ. Việc áp dụng biện pháp thuế CBPG sẽ do Vụ Thuế (Department of Revenue) của Bộ Tài chính thực hiện.  

Việc xét xử các khiếu kiện liên quan đến CBPG sẽ do Tòa Thượng thẩm Hải quan và các vấn đề Thuế (the Customs, Excise and Service Tax Appellate Tribunal - CESTAT) thực hiện. Cấp xét xử cao hơn được thực hiện ở các tòa phúc thẩm và tòa tối cao.

Hệ thống cơ quan thực thi chống bán phá giá của Ấn Độ

CHÍNH PHỦ

NGƯỜI ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH

BAN CBPG - DGAD

VỤ CS THUẾ - BỘ TÀI CHÍNH

TÒA THƯỢNG THẨM

TÒA PHÚC THẨM

TÒA PHÚC THẨM

3. Nội dung các phương pháp xác định bán phá giá và thiệt hại của Ấn Độ

3.1 Xác định biên độ phá giá

a) Xác định sản phẩm tương tự và ngành sản xuất nội địa

Do Ấn Độ đã nội luật hóa Hiệp định ADA nên về cơ bản, cơ quan điều tra xác định sản phẩm tương tự trên cơ sở quy định tại Hiệp định rằng sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có những đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem xét. Tuy nhiên, nghiên cứu các vụ kiện của Ấn Độ cho thấy trong các tiêu chí được nêu thì Ấn Độ xác định SPTT cũng giống như Ủy ban Châu Âu, tức là nhấn mạnh đặc tính vật lý của sản phẩm. Trong việc điều tra, Ấn Độ cũng yêu cầu các nhà sản xuất và xuất khẩu nội địa trả lời bảng câu hỏi để chuẩn bị bảng so sánh mẫu nhằm xác định sự giống nhau giữa sản phẩm sản xuất trong nước cũng như sản phẩm bán ở thị trường nội địa nước xuất khẩu và sản phẩm nhập khẩu.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ở Ấn Độ, việc xác định chính xác sản phẩm tương tự là rất khó khăn do sự không rõ ràng trong phân loại thống kê thương mại hay sự thiếu thông tin về đặc tính của sản phẩm xuất khẩu. Trong những trường hợp đó, cơ quan điều tra Ấn Độ lại có quyền tự quyết rất rộng trong việc xác định SPTT. Bên cạnh đó, một khó khăn chung cho tất cả các cơ quan điều tra là sản phẩm ngày càng tăng sự tinh tế trong yếu tố kỹ thuật và càng trở nên khó nhận dạng sự giống nhau. Aradhna (2002) đã chỉ ra rằng, trong nhiều vụ việc, cơ quan điều tra Ấn Độ đã đưa ra những luận điểm trái ngược nhau về sản phẩm tương tự. Cụ thể, trong một số vụ, cơ quan điều tra đồng ý rằng có sự khác biệt về công nghệ được sử dụng và vì vậy, chất lượng của sản phẩm là khác nhau nhưng lại cho rằng “miễn là các sản phẩm có thể thay thế cho nhau thì chúng được coi là sản phẩm tương tự”, nhưng trong một số vụ khác, cơ quan này lại cho rằng dù các đặc tính vật lý của sản phẩm là khác nhau và việc sử dụng cuối cùng cũng tùy theo tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm nhưng vì quy trình sản xuất và công nghệ là như nhau nên các sản phẩm này là những sản phẩm tương tự.

Ấn Độ cũng học theo các bước, nguyên tắc xác định ngành sản xuất nội địa của EC.

Như vậy, thực trạng ở Ấn Độ cho thấy, Ấn Độ không liệt kê đủ các tiêu chí xác định sản phẩm tương tự mà chỉ căn cứ vào một số tiêu chí cơ bản được quy định trong Hiệp định ADA và trên thực tế trao quyền quyết định cho cơ quan điều tra.

b) Xác định Giá xuất khẩu

Luật Thuế quan Ấn Độ định nghĩa: Giá xuất khẩu, trong quan hệ với một sản phẩm, là giá của sản phẩm xuất khẩu từ nước/vùng lãnh thổ xuất khẩu và trong các trường hợp mà không tồn tại GXK hoặc GXK không đáng tin cậy do có sự liên kết hoặc thỏa thuận bồi thường giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc một bên thứ ba, thì GXK có thể được tính toán trên cơ sở giá mà tại đó sản phẩm nhập khẩu lần đầu tiên được bán cho người mua độc lập đầu tiên, hoặc trong trường hợp sản phẩm không được bán cho người mua độc lập, hoặc không được bán lại trong điều kiện như khi nhập khẩu, trên cơ sở hợp lý có thể được xác định theo các quy tắc của Luật này (Khoản 9A-1).

Như vậy, về cơ bản Luật Ấn Độ quy định tương tự như Hiệp định ADA, song có quy định cụ thể hơn đối với trường hợp GXK tự tính. Quy tắc đó áp dụng cho cả các yếu tố khác là GTT và BĐPG, như sau: Trong trường hợp cần thiết, BĐPG phải được xác định bởi Chính phủ sau khi điều tra và Chính phủ có thể đưa ra các quy tắc cho mục đích xác định biên độ, các quy tắc đó cũng có thể quy định về cách thức xác định GXK, GTT, BĐPG (Khoản 9A-6). Tuy nhiên, Luật không quy định cụ thể trong những trường hợp nào thì được coi là “cần thiết”.

Như vậy, trên cơ sở thực hiện các quy định của Hiệp định ADA, song Luật Ấn Độ dành quyền quyết định theo từng trường hợp, vụ việc cụ thể cho Chính phủ trong việc xác đinh các yếu tố cũng như cách thức xác định các yếu tố liên quan đến phá giá.

Để quy GXK và GTT về giá xuất xưởng, cơ quan điều tra thực hiện những điều chỉnh về lượng, cụ thể, phải trừ đi các khoản chi phí phát sinh trong thời gian từ khi nhập khẩu đến khi bán lại, bao gồm: (i) các khoản thuế, phí, lợi nhuận, hoa hồng, chi phí bán hàng trực tiếp phát sinh ở nước nhập khẩu; (ii) bất kỳ chi phí bán hàng dán tiếp gắn với hoạt động kinh tế (chiết khấu và giảm giá, chi phí đóng gói, chi phí liên quan đến xuất khẩu và vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa, bảo quản, bảo hiểm và các chi phí hợp lý khác); (iii) các khoản chi phí phát sinh từ các hoạt động chế biến tiếp sau; (iv) khoản lợi nhuận từ bán hàng, phân phối ở nước nhập khẩu. 

Việc thực hiện điều chỉnh này ở Ấn Độ được thực hiện trên cơ sở đề nghị của các nhà xuất khẩu. Người được chỉ định có quyền tự quyết định có thực hiện điều chỉnh hay không. Với nhiều hạng mục có thể điều chỉnh như vậy, rõ ràng luật pháp Ấn Độ dành quyền quyết định rất rộng cho cơ quan điều tra chỉ định.

c)  Xác định Giá thông thường

Khoản 9A-1, Luật Thuế quan định nghĩa GTT tương tự Hiệp định ADA: Giá thông thường, trong quan hệ với sản phẩm điều tra, là giá có thể so sánh được, trong điều kiện thương mại bình thường, của sản phẩm tương tự khi chúng được tiêu dùng ở nước/vùng lãnh thổ xuất khẩu, được xác định theo các quy tắc quy định trong Luật này (quy tắc đã nêu trên – 9A-6). 

Điểm khác biệt trong xác định GTT (cũng như GXK) chính là nằm ở các quy tắc được luật định. Chính vì vậy, trong quá trình thực thi việc xác định các giá trị này phụ thuộc nhiều vào quyết định chủ quan của cơ quan điều tra. [31] nghiên cứu các vụ điều tra của Ấn Độ và nhận thấy, trong việc quy GTT về cơ sở giá xuất xưởng, cơ quan điều tra Ấn Độ phụ thuộc nhiều vào giá tham chiếu. Chẳng hạn, trong nhiều trường hợp GTT được xác định là giá bán lại bởi nhà phân phối/nhà bán buôn cho khách hàng không có liên quan. Điều này dễ làm sai lệch GTT vì trong chuỗi phân phối nội địa, giá tham chiếu được tính đến thường ở mức cao (sẽ dẫn tới kết quả BĐPG thường sẽ cao). Cơ quan điều tra sẽ xem xét các điều chỉnh về giá xuất xưởng trên cơ sở đề nghị của nhà xuất khẩu và cơ quan điều tra cũng tự quyết định các điều chỉnh nào được thực hiện.

Giá thông thường tự tính

Điểm khác biệt tiếp theo trong việc xác định GTT ở Ấn Độ là trong việc xác định GTT tự tính. Trong nhiều trường hợp, không thể thu thập thông tin, dữ liệu thực tế về GTT, cơ quan điều tra phải tự tính (xây dựng) GTT. Trong trường hợp thiếu thông tin về giá và chi phí thực, để phục vụ việc tính GTT tự tính, cơ quan điều tra sẽ dựa vào thông tin sẵn có tốt nhất. Tuy nhiên, các thông tin này lại chủ yếu được cung cấp bởi bên khởi kiện, do đó, khả năng có sự thiên lệch là rất cao. Bên cạnh đó, việc tính toán GTT tự tính cần những điều chỉnh nhât định. Việc điều chỉnh như thế nào hoàn toàn là do cơ quan điều tra tự quyết định và do đó, khả năng có sự thiên lệch trong tính toán GTT càng cao hơn[3].

Bảng 2.4 dưới đây trình bày các cách thức tính toán Giá thông thường trong 59 vụ điều tra với tổng số 176 nhà xuất khẩu. Việc sử dụng giá xuất khẩu tới một nước thứ ba khác rất hạn chế áp dụng.

Thống kê về tính Giá thông thường của Ấn Độ (1997- 2003)

Phương pháp tính toán

Số vụ áp dụng

Tính theo giá thực tế

33

Tính theo thông tin có sắn chính xác nhất

1. Giá cả

2. Chi phí

3. Không phân loại

91

16

63

12

Các yếu tố tạo thành chi phí theo thông tin do nhà xuất khẩu cung cấp

50

Giá xuất khẩu tới các nước khác

2

Tổng cộng

176

Nguồn: Sweden National Board of Trade (2006), The use of Antidumping in Brazil, China, India and South Africa – Rules, Trends, and Causes.

d) Phương pháp tính biên độ phá giá của Ấn Độ

Nếu như EU và nhiều nước quy định rất chi tiết trong việc thực hiện các điều chỉnh để so sánh GTT và GXK thì pháp luật Ấn Độ lại không hướng dẫn chi tiết về việc này. Quy tắc 8(6) của Luật Thuế quan nhắc lại quy định của Hiệp định ADA về việc xác định BĐPG về việc thực hiện so sánh công bằng giữa GTT và GXK và đưa ra các yếu tố điều chỉnh. Tuy nhiên, Ấn Độ quy định thêm rằng, các yếu tố điều chỉnh được quy định chỉ mang tính chất gợi ý[4] và bất kỳ yếu tố nào có thể được chứng minh là ảnh hưởng đến so sánh giá, sẽ được cơ quan điều tra xem xét.

Như vậy, trong việc xác định GTT, GXK cũng như so sánh hai giá này để xác định BĐPG, về cơ bản luật pháp Ấn Độ tuân thủ Hiệp định ADA và học theo kinh nghiệm của EU song cũng quy định quyền tự quyết của cơ quan điều tra là rất rộng[5].

3.2. Phương pháp xác định thiệt hại và mối quan hệ giữa bán phá giá và thiệt hại của Ấn Độ

a) Xác định thiệt hại của ngành sản xuất nội địa

Ấn Độ cũng học tập kinh nghiệp của EC trong việc xác định thiệt hại. Nếu như nhiều nước chỉ xác định thiệt hại và mối quan hệ giữa bán phá giá và thiệt hại để quyết định thuế suất thuế CBPG - thường bằng biên độ phá giá – thì EC và Ấn Độ quy định việc xác định thiệt hại phải cụ thể bằng biên độ thiệt hại. Trên cơ sở đó, thuế suất không được lớn hơn một trong hai giá trị biên độ phá giá và biên độ thiệt hại.

Sở dĩ Ấn Độ đưa ra quy định như vậy vì cho rằng thời gian áp dụng thuế chống bán phá giá thường dài hơn thời gian ngành sản xuất trong nước phải chịu thiệt hại từ việc bán phá giá của hàng nhập khẩu. Do đó, các quan điểm ủng hộ việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nước ủng hộ chủ trương này. 

Theo quy định của Ấn Độ, biên độ thiệt hại (injury margin) được tính bằng chênh lệch giữa Giá bán công bằng (Fair Selling Price - FSP)[6], và Giá trị nhập khẩu (landed value), bao gồm giá tính thuế theo Luật Hải quan cộng với thuế quan cơ sở. FSP là giá bán hợp lý của hàng hóa tương tự mà ngành sản xuất trong nước của Ấn Độ có thể bán được trong điều kiện thương mại công bằng (được tính bằng tổng số của Giá sản xuất; Chi phí hành chính, bán hàng, chung; và Lợi nhuận hợp lý). Theo Luật Hải quan, Landed Value sẽ được xác định trên cơ sở giá CIF nhập khẩu của hàng hóa bị điều tra cộng thêm Thuế quan cơ sở đánh vào hàng hóa đó khi nhập khẩu.

Với việc tính biên độ phá giá, cơ quan có thẩm quyền của Ấn Độ có thể xác định một mức thuế thấp hơn biên độ phá giá, mà mục đích không phải để bảo vệ người tiêu dùng hay cộng đồng (mục tiêu này không được nhắc đến trong pháp luật Ấn Độ) mà là để đảm bảo tính chất của biện pháp chống bán phá giá theo pháp luật Ấn Độ là “khắc phục những thiệt hại do việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá gây ra” đối với ngành sản xuất trong nước và thông qua đó đảm bảo một môi trường cạnh tranh công bằng cho ngành sản xuất trong nước.

Nghiên cứu về 15 chỉ số kinh tế trong 59 vụ điều tra bán phá giá trong giai đoạn từ 1997-2003 của cơ quan điều tra cho thấy trong hầu hết các trường hợp, giá cả và lơi nhuận của các nhà sản xuất trong nước có xu hướng giảm xuống khi số lượng hàng hoá nhập khẩu tăng lên [54]. Các chỉ số khác cũng được xem xét trong nghiên cứu này đó là doanh số bán hàng, thị phần và việc tận dụng tối ưu năng lực sản xuất. Trong quá trình đánh giá thiệt hại, tỷ lệ việc làm, tăng trưởng của nền sản xuất, lợi nhuận trên đầu tư và mức lương trung bình không được tính đến trong hầu hết các vụ.

Tính toán thiệt hại đối với nền kinh tế Ấn Độ qua 59 vụ điều tra CBPG

(1998-2003[7])

Yếu tố

Các chỉ số kinh tế phản ảnh thiệt hại

 

Xu hướng tăng (% tổng số vụ)

Tác động ngược chiều (%)

Không có thay đổi (%)

Không được xem xét (%)

Tổng cộng

Giá

3.4

96.6

0.0

0.0

100

Khả năng thu lợi nhuận

0.0

93.2

0.0

6.8

100

Doanh số bán

27.9

57.4

0.0

14.8

100

Thị phần

0.0

53.3

0.0

46.7

100

Tận dụng hết công suất

0.0

49.2

10.2

40.7

100

Lợi nhuận trên mức đầu tư

0.0

22.0

0.0

78.0

100

Việc làm

0.0

16.9

15.3

67.8

100

Thiệt hại hợp đồng

0.0

10.2

0.0

89.8

100

Năng suất

1.7

5.1

0.0

93.2

100

Tăng trưởng ngành sản xuất nội địa

0.0

3.4

0.0

96.6

100

Lợi nhuận trên đầu tư tài chính

0.0

3.4

0.0

96.6

100

Mức lương

1.7

0.0

10.2

88.1

100

Thị phần hàng hoá nhập khẩu

97.8

3.4

0.0

28.8

100

Cổ phiếu đóng cửa

50.8

5.1

3.4

40.7

100

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn: Sweden National Board of Trade (2006), The use of Antidumping in Brazil, China, India and South Africa – Rules, Trends, and Causes.

b) Xác định mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại

Một nghiên cứu của Uỷ ban Thương mại quốc gia Thuỵ Điển (2006) khảo sát trong số 59 vụ điều tra CBPG ở Ấn Độ giai đoạn từ 1997-2003 cho thấy trong hầu hết các trường hợp, giá cả và lơi nhuận của các nhà sản xuất trong nước có xu hướng giảm xuống khi số lượng hàng hoá nhập khẩu tăng lên. Các chỉ số khác cũng được xem xét trong nghiên cứu này đó là doanh số bán hàng, thị phần và việc tận dụng tối ưu năng lực sản xuất. Trong quá trình đánh giá thiệt hại, tỷ lệ việc làm, tăng trưởng của nền sản xuất, lợi nhuận trên đầu tư và mức lương trung bình không được tính đến trong hầu hết các vụ.

Cũng như Quy định của EU, luật Ấn Độ quy định hai vấn đề về mối quan hệ nhân quả. Thứ nhất, phải tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước và hàng hóa bị bán phá giá vào Ấn Độ. Thứ hai, các nguyên nhân gây thiệt hại khác phải được điều tra và không được quy vào nguyên nhân bán phá giá. Các nhân tố khác phải được xem xét, bao gồm: khối lượng và giá hàng hóa nhập khẩu khác, mức giảm cầu, năng xuất, công nghệ.

3.3 Xem xét lợi ích công  

Ấn Độ học tập kinh nghiệm của EU trong việc xem xét lợi ích công (lợi ích công – public interest) trước khi quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Tuy nhiên, khác với EU và một số nước, việc xem xét đến lợi ích công hay lợi ích người tiêu dùng không phải là một yêu cầu bắt buộc ở Ấn Độ. Tuy nhiên trong thực tế đã có một số trường hợp DGAD đã đề xuất áp thuế chống bán phá giá nhưng cuối cùng không đi đến áp dụng biện pháp do xem xét đến lợi ích chung của cộng đồng.

Quy định này cho phép các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng ở Ấn Độ cung cấp các thông tin liên quan cho cơ quan điều tra. Mặc dù rằng các điều khoản quy định về lợi ích công không đủ cụ thể để tính toán định lượng ảnh hưởng của cộng đồng nếu như biện pháp CBPG được áp dụng, song cũng là một công cụ để cơ quan có thẩm quyền các nước có nhiều quyền hạn hơn trong việc quyết định có áp dụng biện pháp CBPG hay không. Tuy vậy, khảo sát các cuộc điều tra của Ấn Độ cho thấy, số quyết định đi đến không áp dụng biện pháp CBPG do ảnh hưởng lợi ích công là không nhiều, chiếm không đến 4% (tính đến 2002). Tuy vậy, trong những năm gần đây, các nước, bao gồm cả Ấn Độ có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến lợi ích công và số vụ việc không áp dụng biện pháp CBPG do ảnh hưởng đến lợi ích công cũng tăng lên [22].

4. Biện pháp chống bán phá giá và quy định rà soát của Ấn Độ

a) Cam kết giá

Cơ quan điều tra có thể hoãn hoặc đình chỉ điều tra nếu nhà xuất khẩu thực hiện: (i) đưa ra cam kết bằng văn bản về việc điều chỉnh giá sao cho không có hàng hóa xuất khẩu nào sang Ấn Độ bị bán phá giá hoặc (ii) trong trường hợp nhập khẩu từ những nước cụ thể, cam kết điều chỉnh giá sao cho những ảnh hưởng gây thiệt hại của việc bán phá giá bị loại bỏ và cơ quan điều tra thừa nhận như vậy, với điều kiện cơ quan điều tra sẽ hoàn thành điều tra và lưu giữ kết quả điều tra, nếu như nhà xuất khẩu mong muốn hay quyết định như vậy.

Cơ quan điều tra có thể không chấp nhận cam kết giá do nhà xuất khẩu đề xuất nếu họ cho rằng việc cam kết đó là không thực tế hoặc không thể chấp nhận được vì bất kỳ lý do gì. 

Cơ quan điều tra phải báo cáo về việc chấp nhận cam kết giá lên Chính phủ và thông báo công khai về việc này. Thông báo phải có đủ các phần thông tin không bí mật của cam kết giá. 

Cũng như quy định của EU, luật Ấn Độ quy định cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu nhà xuất khẩu phải cung cấp thông tin liên quan đến việc thực hiện cam kết giá và cho phép xác định tính chính xác của các dữ liệu liên quan. Trường hợp có vi phạm cam kết, cơ quan có thẩm quyền phải thông báo ngay cho Chính phủ và đề xuất áp dụng thuế tạm thời từ thời điểm vi phạm.

b) Thuế chống bán phá giá

Thuế CBPG được đánh trên cơ sở số lượng theo nguồn nhập khẩu (theo nhà xuất khẩu) và có thể được diễn giải hoặc theo giá hàng (ad valorem) hoặc theo số lượng (specific basis).

Nhà xuất khẩu không hợp tác sẽ bị yêu cầu trả theo mức thuế khác, thông thường là mức thuế suất cao nhất của các nhà xuất khẩu hợp tác.

Về mặt thủ tục, trong vòng 3 tháng kể từ khi thông báo về kết quả điều tra kết luận thỏa mãn điều kiện áp dụng biện pháp CBPG, Chính phủ có thể đánh thuế đối với hàng nhập khẩu bằng việc thông báo trên Công báo.

Nếu kết quả điều tra của cơ quan có thẩm quyền là phủ định, ngược lại với những bằng chứng ban đầu của cuộc điều tra, Chính phủ, nếu đã áp dụng thuế tạm thời, thì phải phải rút lại việc đánh thuế tạm thời trong vòng 45 ngày, kể từ ngày thông báo. 

Đánh thuế không phân biệt đối xử

Thuế tạm thời hoặc thuế chống bán phá giá được đánh theo quy định phải trên cơ sở không phân biệt đối xử và có thể áp dụng được cho hàng nhập khẩu từ bất kỳ nguồn nào bị xác định là bán phá giá và gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa, trừ trường hợp hàng hóa từ các nước đã thực hiện cam kết giá.

c) Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá

Luật Thuế quan Ấn Độ cũng quy định về việc rà soát (Quy tắc 23). Theo đó, cơ quan có thẩm quyền phải rà soát sự cần thiết tiếp tục đánh thuế chống bán phá giá và trong trường hợp dựa trên những thông tin thu được cho thấy không có cơ sở để tiếp tục thực hiện đánh thuế thì phải đề xuất với Chính phủ để dừng áp dụng. Thời gian rà soát phải thực hiện trong thời gian không quá 12 tháng. Các quy định về điều tra bán phá giá được áp dụng trong quá trình rà soát (với những điều chỉnh phù hợp cho việc rà soát).

Việc rà soát bao gồm: rà soát giữa kỳ, rà soát hoàng hôn và rà soát nhà xuất khẩu mới.

Ấn Độ là nước thực hiện nhiều cuộc điều tra bán phá giá, là nước dẫn đầu về số cuộc điều tra tính cho từng nước, song tỉ lệ số vụ dẫn đến việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không cao như Mỹ, EU. 

Số lần áp dụng CBPG ở Ấn Độ với 10 nước bị điều tra nhiều nhất

(1992 - 2005)

Nước

Số vụ điều tra/nước

Đình chỉ điều tra

Đang điều tra

Không A/d BP

Áp dụng BP

Trung Quốc

88

3

11

29

44

EU (25 nước)

57

3

2

29

22

Đài Loan

32

0

2

18

13

Hàn Quốc

31

0

2

15

14

Nhật Bản

22

0

0

12

10

Mỹ

23

1

1

10

11

Singapore

19

3

0

8

8

Indonesia

17

1

2

7

7

Thai Lan

17

1

2

9

5

Nga

14

0

0

9

5

Tổng số

188

 

 

 

148

                                                                                                           Nguồn: Báo cáo thường niên của DGAD 2005 - 2006 [8]

Như vậy, tỉ lệ số lần áp dụng biện pháp trong số các cuộc điều tra bán phá giá của Ấn Độ là 78,7%.

Tuy nhiên, trong số các cuộc thực hiện rà soát thì tỉ lệ tiếp tục áp dụng lại tương đối cao.

Số vụ thực hiện rà soát của Ấn Độ (1992 – 2005)

Loại rà soát

Số vụ tiến hành

Số vụ áp dụng

Rà soát giữa kỳ

46

42

Rà soát hoàng hôn

30

23

Rà soát nhà xuất khẩu mới

12

7

Tổng

88

72

Nguồn: Báo cáo thường niên của DGAD 2005 - 2006

Như vậy, từ phân tích tại Chương 2 có thể thấy các nước đều dựa trên và về cơ bản tuân thủ các nguyên tắc chung của Hiệp định ADA, song Mỹ, EU quy định và hướng dẫn chi tiết hơn; quy định của Ấn Độ không cụ thể trong những nội dung cơ bản mà trao quyền tự quyết nhiều cho cơ quan điều tra. Khảo sát quy định, hướng dẫn của các nước và kinh nghiệm qua các vụ việc điều tra có thể rút ra nhiều bài học bổ ích cho Việt Nam.


[1] Quy tắc này rất ngắn gọn và nhìn chung phù hợp với Hiệp định ADA. Cuộc điều tra đầu tiên của Ấn Độ thực hiên vào năm 1992, trước khi thành lập một cơ quan độc lập chính thức chịu trách nhiệm về điều tra bán phá giá.

[2] Joint Secretary.

[3] Một nghiên cứu khảo sát 63 trường hợp, trong đó, chỉ có 33 trường hợp GTT được xác định dựa trên giá, chi phí thực tế.

[4] indicative

[5] Những tính toán, điều chỉnh do cơ quan điều tra thực hiện được coi là tin cậy và không được công bố, ngay cả công bố cho các bên liên quan.

[6] EC gọi là Giá không thiệt hại (non-injury price).

[7] Tổng kết của Bộ Thương mại Ấn Độ đối với các vụ việc về Chống bán phá giá.

[8] Báo cáo năm 2005-2006 là báo cáo mới nhất được cập nhật trên website của Bộ Công Thương Ấn Độ (http://commerce.nic.in)