Hoa Kỳ thay đổi nhiều quy định liên quan tới chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Những khuyến nghị đối với doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước
Thời gian qua, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã khởi xướng một số cuộc điều tra lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với một số sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam. Vì vậy các Doanh nghiệp Việt cần nghiên cứu và hiểu rõ các quy định, trình tự, thủ tục điều tra chống lẩn tránh thuế của Hoa Kỳ để không phạm phải cũng như hạn chế thiệt hại nếu bị điều tra…
Quy định về điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ
Theo đó, điều tra lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại là một trong những biện pháp phòng vệ thương mại mà các nước nhập khẩu hàng hoá sử dụng để nhằm ngăn chặn các sản phẩm nhập khẩu từ nước xuất khẩu nào đó đang bị lệnh áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp thay đổi nguồn gốc hàng hóa để không chịu thuế thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp. Nếu bị kết luận cuối cùng khẳng định có lẩn tránh thuế, nước nhập khẩu sẽ áp dụng chế tài "trừng phạt" rất nặng, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp sẽ "mất" toàn bộ thị trường xuất khẩu.
Tại Hoa Kỳ, điều luật về chống lẩn tránh thuế được quy định tại Mục 1321 của Đạo luật Thương mại liên ngành và Cạnh tranh 1988 (còn gọi là Đạo luật Thương mại 1988) với tên gọi “Ngăn chặn việc lẩn tránh lệnh áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp” (được pháp điển tại Mục 781 Đạo luật Thuế quan ban hành năm 1930). Quy định của điều luật về chống lẩn tránh thuế ra đời tại Hoa Kỳ, một mặt để theo kịp với quy định của EU về chống lẩn tránh thuế được thông qua vào năm 1987 và mặt khác là do quan ngại việc các nhà sản xuất Châu Á tham gia vào các hành vi lẩn tránh thuế.
Có 4 hành vi lẩn tránh bị cấm được quy định tại Mục 1321 nói trên, bao gồm: Lẩn tránh đối với hàng hoá được hoàn thiện hoặc lắp ráp ở Hoa Kỳ (còn gọi là lẩn tránh thượng nguồn); hàng hoá được hoàn thiện hoặc lắp ráp ở nước ngoài (qua nước thứ 3); sự thay đổi nhỏ đối với hàng hoá và hàng hoá phiên bản mới (lẩn tránh sản phẩm).
Sau vòng đàm phán Uruguay, Hoa Kỳ đã sửa đổi một số tiêu chí đối với các quy định chống lẩn tránh thuế tại Đạo luật Thương mại 1988 thông qua Đạo luật Các Hiệp định về vòng đàm phán Uruguay (URAA). Những thay đổi này chủ yếu liên quan đến lẩn tránh thượng nguồn và lẩn tránh qua nước thứ 3 để sửa những lỗ hổng pháp lý. Trong trường hợp lẩn tránh qua nước thứ 3, yêu cầu tại Đạo luật 1988 về sự khác biệt “nhỏ” giữa trị giá của hàng lắp ráp và linh kiện nhập khẩu là không đủ để ngăn chặn các hành vi lẩn tránh ví dụ như hoạt động lắp ráp ở nước thứ 3 là nhỏ trong khi lượng linh kiện mua từ những nguồn khác là lớn.
Tuy nhiên, theo quy định chống lẩn tránh thuế hiện tại của Hoa Kỳ, thuế chống bán phá giá có thể được mở rộng cho các linh kiện nhập khẩu và sản phẩm từ một nước thứ 3 mà không cần phải tiến hành một cuộc điều tra về chống bán phá giá, chống trợ cấp và thiệt hại, điều này bị cho là vi phạm quy định WTO.
Thẩm quyền và trình tự thủ tục điều tra
Cơ quan có thẩm quyền điều tra các vụ việc chống lẩn tránh thuế là Bộ Thương mại Hoa Kỳ và Uỷ ban Thương mại quốc tế (ITC). Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong đó đóng vai trò chính trong khi ITC chỉ đưa ra ý kiến liên quan đến một số vấn đề.
Trong vụ việc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp, Bộ Thương mại Hoa Kỳ là cơ quan chịu trách nhiệm điều tra liệu có hành vi phá giá, trợ cấp hay không và tính toán biên độ phá giá, trợ cấp. Tại , Bộ Thương mại Hoa Kỳ, đơn vị chịu trách nhiệm điều tra là Vụ Thực thi và Tuân thủ (Enforcement and Compliance- E&C) thuộc Tổng vụ Quản lý Thương mại Quốc tế. Uỷ ban Thương mại quốc tế là cơ quan chịu trách nhiệm điều tra liệu ngành sản xuất trong nước có bị thiệt hại hay không.
Nếu một trong hai cơ quan này ra kết luận phủ định, không có phá giá/trợ cấp hoặc không có thiệt hại thì vụ việc sẽ được chấm dứt.
Mục 1321 (e) quy định về thủ tục chung khi điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp. Một cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp sẽ được khởi xướng nếu ngành sản xuất trong nước liên quan nộp đơn kiện và cung cấp bằng chứng đầy đủ về việc xảy ra hành vi lẩn tránh. Sau khi nhận đơn, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ nghe các ý kiến của các bên liên quan về việc liệu họ ủng hộ hay phản đối đơn kiện. Một thông báo sẽ được ban hành tại Công báo Liên bang nếu vụ việc được khởi xướng bởi Bộ Thương mại Hoa Kỳ.
Đáng lưu ý là, Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng có thể tự khởi xướng điều tra kể cả khi không có đơn kiện trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc tự khởi xướng sẽ phụ thuộc vào việc liệu bằng chứng có đủ để cho thấy có hành vi lẩn tránh hay không.
Sau khi cuộc điều tra được khởi xướng, các bên liên quan sẽ được cung cấp bảng câu hỏi để cung cấp thông tin liên quan về các hành vi lẩn tránh. Những nguồn khác như tài liệu chính thức cũng có thể cung cấp thông tin phù hợp cho Bộ Thương mại Hoa Kỳ .
Một quyết định tạm thời sẽ được ban hành nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ ra kết luận. Tuy nhiên, bên liên quan có thể tiếp tục cung cấp bằng chứng và đưa ra quan điểm hoặc yêu cầu tranh tụng chính thức. Đồng thời, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ thông báo với Uỷ ban Thương mại quốc tế nếu dự định mở rộng biện pháp áp thuế CBPG/CTC ban đầu cho một sản phẩm mới.
Mặt khác, Uỷ ban Thương mại quốc tế có thể yêu cầu tham vấn với Bộ Thương mại Hoa Kỳ nếu cần thiết. Việc tham vấn này sẽ cho phép ITC quyết định liệu kết luận hiện hành về thiệt hại của lệnh áp thuế ban đầu có vấn đề gì không nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ mở rộng lệnh áp thuế hiện hành cho sản phẩm mới.
Trong vòng 60 ngày, Uỷ ban Thương mại quốc tế sẽ phải cung cấp bản ý kiến bằng văn bản cho Bộ Thương mại Hoa Kỳ liên quan đến vấn đề này. Sau khi nhận được ý kiến của Uỷ ban Thương mại quốc tế, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ đưa ra kết luận cuối cùng (công bố công khai) về thông tin được cung cấp bởi các bên liên quan và ý kiến của Uỷ ban Thương mại quốc tế.
Theo quy định, một cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế phải được thực hiện trong vòng 300 ngày sau khi khởi xướng. Các quyết định của Bộ Thương mại Hoa Kỳ về các biện pháp chống lẩn tránh thuế bị rà soát tư pháp.
Bên cạnh đó, Hoa Kỳ áp dụng một hệ thống đặc biệt liên quan đến thu thuế. Khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ ra kết luận cuối cùng khẳng định có lẩn tránh thuế, thuế sẽ không bị áp ngay lập tức sau quyết định này mà yêu cầu một khoản đảm bảo (thường dưới dạng đặt cọc bằng tiền mặt) đối với hàng hoá bị nghi ngờ. Một cuộc rà soát hành chính để tính toán mức thuế cuối cùng chính thức sẽ được tiến hành sau khi hoàn thành cuộc điều tra.
Do đó, việc tính toán và thu thuế chính thức được thực hiện sau cuộc rà soát hành chính này. Tuy nhiên, mức thuế chính thức được tính toán phụ thuộc vào mức độ phá giá/trợ cấp của giai đoạn rà soát.
Cần lưu ý là thủ tục này chỉ áp dụng cho các vụ việc điều tra chống lẩn tránh liên quan đến hành vi lẩn tránh thượng nguồn (nhưng không bao gồm lắp ráp hoặc hoàn thiện nhỏ), lẩn tránh thông qua nước thứ 3 và sản phẩm phiên bản sau. Những hành vi lẩn tránh khác sẽ phải tuân theo các thủ tục cụ thể.
Một số vấn đề Doanh Nghiệp Việt Nam cần đặc biệt lưu ý.
Cho đến nay Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC)đã khởi xướng hàng trăm vụ điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp, trong đó chủ yếu là các vụ điều tra đối với lệnh áp thuế dành cho Trung Quốc, UAE, Đài Loan, Canada,…
Đối với Việt Nam, Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra trên 5 vụ, hầu hết là điều tra lẩn tránh thuế với sản phẩm thép – mới đây nhất là cuộc điều tra lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với một số sản phẩm ống thép - chủ yếu thuộc mã HS 7306.61 và 7306.30 theo đơn kiện của các doanh nghiệp sản xuất ống thép lớn tại Hoa Kỳ cáo buộc Việt Nam nhập khẩu thép cán nóng - là nguyên liệu chính để sản xuất ra ống thép từ Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc… (đang bị áp dụng thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp cao nhất lên đến 616%) sau đó gia công, chế biến đơn giản thành ống thép và xuất sang Hoa Kỳ.
Đáng lưu lý là phần lớn các vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế đối với hàng Việt Nam đều liên quan đến cáo buộc lẩn tránh thuế áp tại một số nước đang bị áp thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và đa phần liên quan đến hình thức lắp ráp, gia công, chế biến đơn giản tại một nước thứ ba (Việt Nam), lấy xuất xứ để xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Ngoài ra, mức thuế chống lẩn tránh thuế thường được Hoa Kỳ áp dụng bằng với mức thuế của vụ việc gốc và do đó hàng hoá bị điều tra chống lẩn tránh thuế có thể bị áp một mức thuế rất cao. Ngoài ra, một vụ việc chống lẩn tránh thuế có thể dẫn tới một vụ việc điều tra chống lẩn bán phá giá, chống trợ cấp.
Đặc biệt, do quy định/thông lệ của Hoa Kỳ là sẽ áp mức thuế chống lẩn tránh chung cho tất cả các doanh nghiệp dù doanh nghiệp có hợp tác hay không hợp tác với doanh nghiệp có hành vi lẩn tránh. Vì vậy, các doanh nghiệp không hợp tác sẽ rất thiệt và không được hưởng mức thuế thấp hơn kể cả họ không hợp tác với doanh nghiệp có hành vi lẩn tránh. Đây là một thực tế pháp lý mà các doanh nghiệp Việt cần hết sức lưu ý để không phạm phải.
Theo pháp luật phòng vệ thương mại (PVTM) của Hoa Kỳ (Chương VII, Đạo Luật Thuế quan 1930), thẩm quyền rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến PVTM được trao cho Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC). USDOC đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả điều tra, thực thi các biện pháp PVTM. Chính sách PVTM của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Joe Biden đã trải qua 02 lần sửa đổi:
- Lần 1: Ngày 20/9/2021, USDOC đăng công báo sửa đổi một số nội dung trong quy định pháp luật về điều tra CBPG/CTC và điều tra chống lẩn tránh, lần lượt có hiệu lực từ ngày 20/10/2021 và 4/11/2021. Phần lớn các quy định sửa đổi chỉ “luật hóa” quy trình thủ tục, thông lệ, thực tiễn điều tra chống lẩn tránh của USDOC vốn chưa được hướng dẫn cụ thể trước đây. Điều này giúp tăng cường tính minh bạch của quy trình điều tra, giúp các bên có liên quan dễ dàng hình dung và có các bước chuẩn bị để xử lý vụ việc. Tuy nhiên, một số quy định sửa đổi theo hướng tăng quyền định đoạt của USDOC có thể gây khó khăn nhất định cho các nhà sản xuất/xuất khẩu và thậm chí chính các nhà nhập khẩu của Hoa Kỳ, ví dụ như việc áp dụng thuế hồi tố khi điều tra xem xét phạm vi sản phẩm và điều tra chống lẩn tránh thuế với tất cả các lô hàng chưa thanh khoản hải quan trong khoảng thời gian khá dài (có thể lên tới 10 tháng trước khi USDOC ra quyết định) khiến nhà nhập khẩu có xu hướng lựa chọn hàng hóa của các nước ít rủi ro bị điều tra…
- Lần 2: Tháng 5/2023, USDOC công bố dự thảo sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều tra CBPG/CTC để lấy ý kiến các bên liên quan, tập trung vào cáo buộc các chương trình trợ cấp mới (trợ cấp xuyên quốc gia, trợ cấp do Chính phủ không hành động), thay đổi phương pháp lựa chọn nước/giá trị thay thế trong điều tra CBPG và CTC, quy định chi tiết về tình hình thị trường đặc biệt – những vấn đề có thể ảnh hưởng lớn hơn tới Việt Nam. Ngày 10/7/2023, trên cơ sở ý kiến đóng góp của các bên liên quan, Bộ Công Thương cũng đã gửi văn bản bình luận với dự thảo sửa đổi quy định của Hoa Kỳ và đề nghị Hoa Kỳ xem xét, cân nhắc một cách công bằng và kỹ lưỡng khi ban hành quy định cuối cùng, đảm bảo phù hợp với các quy định của WTO mà hai nước là thành viên. Tại các cuộc họp giữa Bộ Công Thương và USDOC sau đó, Việt Nam tiếp tục nêu quan ngại về dự thảo này. USDOC cho biết thực chất việc sửa đổi quy định này là nhằm xử lý vấn đề dư thừa năng suất của Trung Quốc và ghi nhận ý kiến của Việt Nam, đồng thời sẽ xem xét tất vả các ý kiến của các bên liên quan khác để giải trình trước khi ban hành. Trong số 53 bình luận của các bên liên quan nộp bình luận đúng hạn, các Hiệp hội và doanh nghiệp sản xuất của Hoa Kỳ ủng hộ dự thảo trong khi chính phủ và doanh nghiệp các nước xuất khẩu lớn vào Hoa Kỳ như Trung Quốc, Hàn Quốc, Colombia, Mexico… bày tỏ quan ngại tương tự Việt Nam.
Quy định mới về điều tra CBPG/CTC và chống lẩn tránh chính thức có hiệu lực từ ngày 24/4/2024 với một số điểm đáng lưu ý như sau:
- Cho phép điều tra và áp thuế trợ cấp xuyên quốc gia (transnational subsidies):
USDOC bãi bỏ quy định hiện hành không cho phép Hoa Kỳ điều tra CTC xuyên quốc gia và bảo lưu quyền điều tra và áp thuế CTC đối với các khoản trợ cấp xuyên quốc gia (tức là các khoản trợ cấp do chính phủ hoặc tổ chức công ở một quốc gia cung cấp mang lại lợi ích cho nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu ở một quốc gia khac, ví dụ như các khoản trợ cấp từ chương trình “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) của Trung Quốc có thể hỗ trợ việc sản xuất xuất khẩu của nước thứ ba trong tương lai.
Hiện tại, về cơ bản, trong các vụ việc điều tra CTC của Hoa Kỳ với Việt Nam, chỉ một số chương trình bị kết luận là trợ cấp có thể đối khác và được nhận bởi doanh nghiệp, do đó mức thuế CTC khá thấp. Vì vậy, có thể đánh giá việc điều tra CTC không còn đạt được mục tiêu “áp thuế” như Hoa Kỳ kỳ vọng. Trên thực tế, thời gian gần đây Hoa Kỳ ít điều tra CTC với Việt Nam (vụ việc điều tra đã kết thúc gần nhất là từ năm 2020 với lốp xe ô tô, mức thuế CTC là 6,23% đến 7,89% và mức thuế rà soát với một số doanh nghiệp chỉ còn 0%). Tuy nhiên theo nhận định của Bộ Công Thương, việc sửa đổi này có thể dẫn tới sự khó định đoán và mức thuế CTC bất lợi hơn cho Việt Nam trong các vụ việc tương lai, do Hoa Kỳ có thể gộp thêm các trợ cấp của Chính phủ các nước khác (ví dụ như Trung Quốc, Đài Loan – Trung Quốc, Hàn Quốc…) để tính biên độ trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam, có thể đẩy biên độ trợ cấp lên rất cao. Ngoài ra, rất khó để kiểm soát và nắm được liệu Chính phủ các nước các nước khác có trợ cấp gì cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam hay cho nguyên liệu nhập khẩu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ hay không.
- Bổ sung cáo buộc chương trình trợ cấp mới:
USDOC bổ sung trường hợp Chính phủ nước bị điều tra CTC bỏ qua, không thu các khoản phí, tiền phạt, hình phạt phải nộp (ví dụ phí xử lý nước thải, tiền phạt vi phạm tiêu chuẩn an toàn lao động trong nhà máy…) cũng được coi là 01 khoản trợ cấp, do Chính phủ đáng lẽ đã yêu cầu thanh toán hoặc phải có hành động để thu các khoản đó. USDOC cho rằng đây được coi là một khoản trợ cấp có thể đối kháng vì Chính phủ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp xuất khẩu (khoản tiền không phải nộp hoặc chậm nộp).
Ngoài ra, USDOC cũng bổ sung quy định coi các khoản vay từ Chính phủ hoặc ngân hàng thuộc sở hữu của Chính phủ là một khoản tài trợ (grant) nếu không có khoản thanh toán gốc và lãi nào được thực hiện trong vòng 03 năm, trừ khi người nhận khoản vay đó có thể chứng minh được việc không thanh toán đó phù hợp với các điều khoản vay thương mại tương đương trên thị trường hoặc phù hợp với các điều khoản của hợp đồng vay.
- Bổ sung quy định lựa chọn nước thay thế
USDOC bổ sung quy định khi lựa chọn nước thay thế để tính toán biến bộ CBPG cho các nền kinh tế phi thị trường (trong đó có Việt Nam), thì sẽ loại trừ, không lựa chọn các quốc gia trợ cấp xuất khẩu rộng rãi/có trợ cấp hoặc bị áp thuế CBPG liên quan đến giá trị thay thế/không thực thi và có cơ chế thực thi yếu, không hiệu quả, các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, quyền con người, lao động, môi trường do giá trị thay thế, ngưỡng chuẩn hay chi phí sản xuất tại quốc gia này có khả năng bị bóp méo hoặc không phù hợp với nguyên tắc thị trường.
Trong trường hợp không có đề xuất giá trị thay thế nào phù hợp từ một quốc gia có nền KTTT có trình độ phát triển tương đương với Việt Nam thì USDOC sẽ sử dụng giá trị thay thế của một quốc gia có nền KTTT có trình độ phát triển không tương đương. Các quốc gia thường được Hoa Kỳ lựa chọn làm nước thay thế cho Việt Nam (Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ…) trong điều tra PVTM đều có những hạn chế nhất định liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, quyền con người, lao động, môi trường do đều là các nước đang phát triển, có trình độ phát triển tương đồng. Indonesia và Ấn Độ cũng là các nước bị áp dụng biện pháp CTC nhiều nhất trên thế giới. Vì vậy, đề xuất sửa đổi này của USDOC có thể dẫn tới việc USDOC chọn quốc gia thay thế là nước có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam, làm gia tăng giá trị thay thế, dẫn đến đẩy biên độ phá giá lên cao hơn.
Ngoài ra, quy định mới cũng cho phép trong trường hợp không có đề xuất giá trị thay thế nào phù hợp từ một quốc gia là nhà sản xuất hàng hóa đáng kể có thể so sánh với hàng hóa bị điều tra, thì USDOC có thể dử dụng giá trị thay thế của một quốc gia có nền KTTT không phải là nhà sản xuất hàng hóa đáng kể có thể so sánh với hàng hóa bị điều tra.
Mặc dù trong quá trình điều tra của USDOC, Việt Nam có quyền bình luận về việc lựa chọn nước thay thế nhưng quyền lựa chọn cuối cùng vẫn thuộc về USDOC nên quy định mới này sẽ gây bất lợi cho Việt Nam.
- Quy định chi tiết về tình hình thị trường đặc biệt (PMS)
USDOC đã bổ sung và cụ thể hóa các quy định về điều tra PMS trong các vụ việc điều tra CBPG, cho phép USDOC có thể sử dụng giá trị thay thế để tính toán biên độ phá giá trong vụ việc đó, tương tự như phương pháp tính toán biên độ phá giá các nền kinh tế phi thị trường. USDOC định nghĩa PMS tồn tại khi: (i) không thể so sánh hợp lý giá bán tại nước xuất khẩu với giá xuất khẩu; hoặc (ii) dẫn tới bóp méo chi phí nguyên liệu và chế tạo hoặc các công đoạn sản xuất khác, khiến chi phí sản xuất không phản ánh chính xác chi phí sản xuất trong điều kiện thương mại thông thường. USDOC đưa ra một số ví dụ về PMS như: áp thuế xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu, ban hành và thực thi các quy định hạn chế cạnh tranh mang lại vị thế đặc biệt cho các nhà sản xuất được ưu đãi hoặc tạo ra rào cản gia nhập thị trường, sự kiểm soát trực tiếp của chính phủ đối với việc định giá hàng hóa, việc chính phủ thực thi yếu hay không hành động… Các ví dụ này cho thấy khả năng bị kết luận tồn tại PMS khá lớn vì bao hàm phạm vi rất rộng.
- Một số sửa đổi khác
+ Sửa đổi và bổ sung quy định về trích dẫn thông tin
USDOC cũng sửa đổi và bổ sung quy định yêu cầu các bên phải cung cấp tài liệu gốc của thông tin dẫn chiếu, ví dụ bài báo, bài nghiên cứu, sách giáo khoa… (chứ không chỉ cung cấp đường link hoặc mã URL của trang web) trong các bản trả lời câu hỏi, bản bình luận… để đảm bảo các tài liệu này được lưu trong hồ sơ vụ việc.
Tuy nhiên, USDOC cũng đưa ra một số ngoại lệ đối với những nguồn tài liệu mà các bên có thể trích dẫn mà không cần có trong hồ sơ vụ việc, bao gồm: các đạo luật và quy định của Hoa Kỳ; lịch sử lập pháp Hoa Kỳ đã xuất bản; các quyết định và lệnh của tòa án Hoa Kỳ; một số thông báo nhất định của USDOC và USITC được đăng trên Thông báo Liên bang, các biên bản quyết định và báo cáo được thông qua bởi những thông báo đó; các hiệp định về PVTM của WTO.
Việc sửa đổi và bổ sung này có thể làm tăng tính minh bạch cho quy trình điều tra do trong một số sự việc trước đây, một phần nội dung lập luận đệ trình (case brief) của Việt Nam từng bị USDOC từ chối với lý do đưa ra thông tin mới khi trích dẫn các biên bản của USDOC trong các vụ việc khác. Mặt khác, quy định này cũng yêu cầu Chính phủ và các doanh nghiệp của Việt Nam phải cung cấp đầy đủ các tài liệu nguồn khi trích dẫn thông tin, nếu không DOC có thể từ chối xem xét các thông tin này.
+ Bổ sung quy định phân cấp áp dụng dữ liệu bất lợi sẵn có (Adverse Fact Available – AFA) trong các vụ việc điều tra CTC:
Thông thường, để xác định mức trợ cấp khi không có thông tin được các bên cung cấp, USDOC thường mặc định áp dụng mức cao nhất dựa trên AFA. Theo quy định mới, USDOC luật hóa để áp dụng AFA trong các cụ điều tra CTC ban đầu theo thứ tự ưu tiên sau: (1) mức trợ cấp cao nhất từ 0,5% trở lên được xác định cho chương trình giống hệt sử dụng bởi bị đơn hợp tác trong vụ việc; (2) mức trợ cấp cao nhất từ 0,5% trở lên được xác định cho chương trình giống hệt/tương tự/chương trình không dành riêng cho một công ty cụ thể trong các cụ việc điều tra CTC khác mà Hoa Kỳ đã tiến hành đối với chính quốc gia đó (nếu có). Nếu không có các chương trình trợ cấp giống hệt hoặc tương đương, USDOC sẽ áp dụng mức trợ cấp cao nhất từ 0,5% trở lên trong vụ việc CTC cho cùng quốc gia đó mà USDOC cho là hợp lý. Ngoài ra, USDOC cũng ban hành thứ tự ưu tiên cho việc sử dụng AFA trong các cuộc rà soát hành chính với cách thức tương tự.
+ Bổ sung quy định cho phép bình luận về sớn đề nghị điều tra phạm vi sản phẩm/chống lẩn tránh thuế PVTM
USDOC cũng bổ sung quy định cho phép các bên liên quan (không phải nguyên đơn) bình luận, nhận xét về tính đầy đủ và xác thực của đơn đề nghị điều tra phạm vi sản phẩm và chống lẩn tránh trong phạm vi 10 ngày sau khi nhận đơn. Ngoài rá, USDOC cũng cho phép các bên liên quan nộp các thông tin thực tế trong vòng 10 ngày kể từ khi đơn đề nghị vụ việc chống lẩn tránh thuế PVTM được nộp và phía nguyên nguyên đơn có thể phản biện, làm rõ, điều chỉnh lại các thông tin thực tế đó trong vòng 05 ngày tiếp theo. Điều này giúp hồ sơ vụ việc có đầy đủ thông tin để USDOC có thể xem xét quyết định khởi xướng vụ việc hay không.
Quy định này cho phép Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam có thể bình luận về tính hợp lệ, phản biện lại các thông tin trong đơn kiện nhằm phản đối việc khởi xướng điều tra.
Do đó, Doanh nghiệp Việt cần chủ động hoàn thiện hệ thống quản lý, số liệu để đảm bảo đáp ứng các yêu cầu về thông tin, đồng thời cần hợp tác tối đa với của cơ quan liên quan tại nước nhập khẩu trong các vụ việc điều tra.
Khi phát hiện các dấu hiệu vi phạm, doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng để điều tra, ngăn chặn, tránh để hành vi của một vài doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính.
Một số khuyến nghị đối với cơ quan nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam trong việc thực hiện pháp luật của Hoa Kỳ về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại
Từ những phân tích về pháp luật Hoa Kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật Hoa Kỳ về chống lẩn tránh biện pháp PVTM qua một vụ việc cụ thể, nhóm nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị đối với cơ quan nhà nước Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất, xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Hoa Kỳ.
Đối với doanh nghiệp Việt Nam
Các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất, xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Hoa Kỳ là đối tượng chịu tác động trực tiếp bởi việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM. Chính vì vậy, để hạn chế các tác động tiêu cực này, các doanh nghiệp cần chủ động thực hiện các biện pháp trước, trong và sau quá trình điều tra, cụ thể:
Thứ nhất, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động theo dõi thông tin liên quan đến việc áp dụng biện pháp PVTM của Hoa Kỳ đối với các mặt hàng thuộc lĩnh vực kinh doanh của mình, bao gồm cả thông tin về áp dụng biện pháp PVTM đối với hàng hóa từ Việt Nam và hàng hóa từ các quốc gia khác. Việc theo dõi thông tin về áp dụng biện pháp PVTM đối với hàng hóa từ Việt Nam có thể giúp doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ tuân thủ và bảo vệ quyền lợi của mình. Việc theo dõi thông tin về áp dụng biện pháp PVTM đối với hàng hóa từ các quốc gia khác có thể giúp doanh nghiệp ngăn ngừa được nguy cơ liên quan đến hành vi lẩn tránh bằng cách lắp đặt, hoàn thiện sản phẩm tại nước thứ ba. Doanh nghiệp cần chú trọng tới một số dữ liệu mà cơ quan điều tra có thể xem xét để đánh giá sự tồn tại của hành vi lẩn tránh, ví dụ như xu hướng nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước bị áp dụng biện pháp PVTM vào Việt Nam, xu hướng nhập khẩu hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM từ nước bị áp dụng biện pháp PVTM, xu hướng nhập khẩu hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM từ Việt Nam,… kể từ thời điểm Hoa Kỳ khởi xướng điều tra PVTM và thời điểm quyết định áp dụng biện pháp PVTM.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực cung cấp thông tin trong suốt quá trình điều tra. Pháp luật Hoa Kỳ cho phép các bên quan tâm được trình bày ý kiến và cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra ngay từ thời điểm công bố quyết định khởi xướng điều tra. Sau đó, trong quá trình điều tra, các doanh nghiệp cũng có thêm những cơ hội để trình bày ý kiến và cung cấp thông tin, ví dụ như sau khi công bố Kết luận sơ bộ. Việc tích cực cung cấp thông tin giúp cơ quan điều tra có thêm cơ sở để xem xét trước khi đưa ra kết luận cuối cùng. Ngoài ra, trong trường hợp cơ quan điều tra kết luận có tồn tại hành vi lẩn tránh và quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh đối với hàng hóa nhập khẩu từ tất cả các chủ thể trên lãnh thổ Việt Nam, việc chủ động cung cấp thông tin có thể giúp doanh nghiệp được loại trừ áp dụng biện pháp. Ví dụ như trong vụ việc đối với thép CORE nhập khẩu từ Việt Nam sử dụng nguyên vật liệu có xuất xứ Trung Quốc, khi doanh nghiệp Việt Nam cung cấp thông tin chứng minh việc không sử dụng nguyên vật liệu có xuất xứ Trung Quốc trong quá trình sản xuất, cơ quan điều tra đã xem xét và cho phép các doanh nghiệp cung cấp giấy chứng nhận cần thiết để được loại trừ áp dụng biện pháp chống lẩn tránh. Ngược lại, việc không cung cấp thông tin, đặc biệt là trong trường hợp có yêu cầu từ cơ quan điều tra, có thể gây ra một số hậu quả tiêu cực đối với doanh nghiệp. Với nguyên tắc chỉ phân tích dựa trên thông tin có thể tiếp cận được và nguyên tắc phân tích thông tin theo hướng bất lợi cho các chủ thể không hợp tác, cơ quan điều tra có thể hạn chế việc tự tìm kiếm các thông tin liên quan đến vụ việc và chỉ chú trọng xem xét các thông tin được cung cấp bởi chủ thể yêu cầu khởi xướng điều tra. Các thông tin mà chủ thể yêu cầu khởi xướng này đưa ra mang tính chất bất lợi đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu tại Việt Nam. Tùy thuộc theo loại hành vi lẩn tránh bị yêu cầu điều tra, cơ quan điều tra có thể quyết định xem xét các thông tin khác nhau. Doanh nghiệp cần chú ý và cung cấp loại thông tin phù hợp với từng vụ việc. Ví dụ, trong các vụ việc về lắp ráp, hoàn thiện sản phẩm bị áp dụng biện pháp PVTM tại Hoa Kỳ hoặc tại nước thứ ba, doanh nghiệp cần cung cấp các thông tin về chi phí dành cho quy trình sản xuất, chi phí của nguyên vật liệu được sử dụng để lắp ráp, hoàn thiện sản phẩm. Trong các vụ việc về thay đổi không đáng kể sản phẩm bị áp dụng biện pháp PVTM và hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM được phát triển sau, doanh nghiệp cần cung cấp các thông tin về tính chất vật lý, kỳ vọng của người tiêu dùng cuối cùng, mục đích sử dụng cuối cùng, kênh phân phối thương mại, cách thức quảng cáo và trưng bày, cũng như chi phí để thực hiện sự thay đổi. Bên cạnh đó, thay vì xem xét dữ liệu về chi phí do các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp, cơ quan điều tra có thể lựa chọn dữ liệu xem xét dữ liệu từ một quốc gia khác có trình độ phát triển kinh tế tương đương với lý do Việt Nam không phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp Việt Nam nên theo dõi tiền lệ trong việc lựa chọn nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển tương đương của cơ quan điều tra và đưa ra đề xuất đối với cơ quan điều tra về việc lựa chọn nền kinh tế để thu thập dữ liệu và đánh giá. Cuối cùng, các doanh nghiệp Việt Nam nên phối hợp trong việc cung cấp thông tin trong quá trình điều tra. Thông qua việc phối hợp, các doanh nghiệp có thể cung cấp đầy đủ và toàn diện các thông tin để cơ quan điều tra xem xét. Việc phối hợp có thể được thực hiện thông qua các hiệp hội doanh nghiệp hoặc thông qua thỏa thuận giữa các doanh nghiệp khi Hoa Kỳ khởi xướng thủ tục điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM.
Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam cần lưu trữ đầy đủ thông tin về thành phần, xuất xứ của các nguyên vật liệu được sử dụng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ và sẵn sàng cung cấp các thông tin này theo yêu cầu của cơ quan điều tra. Như đã phân tích ở các phần trên, cơ quan điều tra có thể quyết định loại trừ áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đối với các doanh nghiệp cung cấp được giấy chứng nhận về việc không sử dụng nguyên vật liệu có xuất xứ từ nước bị áp dụng biện pháp PVTM. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý theo dõi quyết định, cũng như các chỉ dẫn của cơ quan điều tra về việc cung cấp, duy trì và xuất trình giấy chứng nhận để bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp không thực hiện hành vi lẩn tránh biện pháp PVTM.
Đối với cơ quan nhà nước Việt Nam
Các cơ quan nhà nước Việt Nam phụ trách các vấn đề về quản lý ngoại thương, cụ thể là Cục Phòng vệ thương mại của Bộ Công thương, có thể hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trước, trong và sau quá trình điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM bằng một số giải pháp:
Thứ nhất, cơ quan nhà nước nên hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc dự báo nguy cơ bị điều tra và áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM. Như đã phân tích trong các phần trên, nguy cơ doanh nghiệp Việt Nam bị điều tra về lẩn tránh biện pháp PVTM có thể xuất hiện trong trường hợp Hoa Kỳ áp dụng biện pháp PVTM đối với Việt Nam hoặc áp dụng biện pháp PVTM đối với các quốc gia khác. Cơ quan nhà nước nên hướng dẫn để doanh nghiệp hiểu được những nguy cơ này để chủ động theo dõi, cũng như có những biện pháp phòng ngừa và đối phó phù hợp. Ví dụ, trong trường hợp Hoa Kỳ áp dụng biện pháp PVTM đối với Việt Nam, cơ quan nhà nước có thể đưa ra khuyến cáo đối với doanh nghiệp về khả năng bị điều tra và áp dụng biện pháp chống lẩn tránh trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện các hành vi như xuất khẩu nguyên vật liệu để lắp đặt, hoàn thiện hàng hóa tại Hoa Kỳ, thay đổi không đáng kể đặc tính của sản phẩm bị áp dụng biện pháp PVTM, hoặc bổ sung thêm tính năng đối với sản phẩm bị áp dụng biện pháp PVTM. Trong trường hợp Hoa Kỳ áp dụng biện pháp PVTM đối với các quốc gia khác, cơ quan nhà nước có thể theo dõi xu hướng nhập khẩu nguyên vật liệu từ quốc gia đó để sản xuất sản phẩm bị áp dụng biện pháp PVTM tại Việt Nam cũng như xu hướng xuất khẩu sản phẩm bị áp dụng biện pháp PVTM từ Việt Nam sang Hoa Kỳ để kịp thời cảnh báo các doanh nghiệp về khả năng bị điều tra và áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM.
Thứ hai, cơ quan nhà nước nên tích cực hỗ trợ doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin khi bị điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM. Như đã phân tích ở trên, việc chủ động cung cấp thông tin trong quá trình điều tra có thể tạo ra tác động tích cực cho doanh nghiệp Việt Nam, ngay cả khi cơ quan điều tra quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM. Tuy nhiên, pháp luật của Hoa Kỳ về điều tra và áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM, đặc biệt là pháp luật về xác định hành vi lẩn tránh, không có những quy định mang tính chất cụ thể và được áp dụng linh hoạt bởi cơ quan điều tra dựa trên các tiền lệ và tình tiết cụ thể của vụ việc. Do rào cản về ngôn ngữ và kiến thức chuyên môn, doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các vụ việc trước đó và phân tích khả năng áp dụng pháp luật của cơ quan điều tra trong vụ việc hiện tại để từ đó cung cấp các thông tin có lợi cho mình. Bên cạnh đó, việc tiếp cận các nguồn thông tin của doanh nghiệp cũng có thể gặp nhiều hạn chế, đặc biệt là các nguồn thông tin chính thức, được kiểm chứng và được công nhận bởi cơ quan điều tra Hoa Kỳ. Cơ quan nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc theo dõi, nghiên cứu các vụ việc điều tra về chống lẩn tránh biện pháp PVTM có liên quan đến doanh nghiệp Việt Nam ngay từ giai đoạn khởi xướng điều tra, từ đó đưa ra các khuyến nghị phù hợp đối với các doanh nghiệp có có hàng hóa thuộc nhóm bị điều tra lẩn tránh. Đồng thời, cơ quan nhà nước có thể tổ chức tham vấn với các doanh nghiệp để xác định được quan điểm, nhu cầu về thông tin của các doanh nghiệp nhằm xác định cách thức hỗ trợ phù hợp và đảm bảo việc cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra Hoa Kỳ kịp thời, đầy đủ và toàn diện.