Thông tin liên quan đến các yêu cầu Hoa Kỳ điều tra bán phá giá và trợ cấp đối với sản phẩm thép chống ăn mòn (thép CORE) nhập khẩu từ Việt Nam và một số đối tác khác

Đơn yêu cầu

Vào ngày 5 tháng 9 năm 2024, các công ty Steel Dynamics, Inc, Nucor Corporation, United States Steel Corporation, Wheeling-Nippon Steel, Inc., cùng với một số liên đoàn lao động tại Hoa Kỳ đã nộp đơn yêu cầu áp thuế chống bán phá giá sản phẩm thép chống ăn mòn ("CORE") nhập khẩu từ Úc, Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Hà Lan, Nam Phi, Đài Loan (Trung Quốc), Thổ Nhĩ Kỳ, UAE và Việt Nam. Đồng thời, các công ty và tổ chức này cũng nộp đơn yêu cầu áp thuế chống trợ cấp đối với sản phẩm thép CORE nhập khẩu từ từ Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Việt Nam. Đơn yêu cầu cho rằng ngành sản xuất thép CORE của Hoa Kỳ đang bị thiệt hại đáng kể và bị đe dọa thiệt hại đáng kể do hàng nhập khẩu có các hành vi cạnh tranh không công bằng gây ra.

Phạm vi sản phẩm bị đề nghị điều tra trong đơn yêu cầu

Các sản phẩm bị đề nghị điều tra là một số sản phẩm thép cán phẳng, được phủ, mạ hoặc tráng kim loại chống ăn mòn như kẽm, nhôm hoặc hợp kim kẽm, nhôm, niken hoặc sắt, bất kể có tạo hình lượn sóng hay được sơn, vecni, cán mỏng hay phủ nhựa hoặc các chất phi kim khác ngoài lớp phủ kim loại hay không. Các sản phẩm bị đề nghị điều tra bao gồm các sản phẩm dạng cuộn có chiều rộng từ 12,7 mm trở lên, bất kể được cuộn dưới dạng nào (ví dụ: cuộn theo các lớp chồng lên nhau liên tiếp, cuộn xoắn ốc, v.v.). Các sản phẩm bị đề nghị điều tra cũng bao gồm các sản phẩm không ở dạng cuộn (ví dụ: dạng thẳng) có độ dày nhỏ hơn 4,75 mm, có chiều rộng từ 12,7 mm trở lên đồng thời chiều rộng lớn ít nhất gấp 10 lần độ dày. Các sản phẩm bị đề nghị điều tra cũng bao gồm các sản phẩm không ở dạng cuộn (ví dụ: dạng thẳng) có độ dày từ 4,75 mm trở lên, có chiều rộng lớn hơn 150 mm đồng thời chiều rộng lớn ít nhất gấp đôi độ dày. Các sản phẩm bị đề nghị điều tra có thể là hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn hoặc hình dạng khác và bao gồm các sản phẩm có mặt cắt hình chữ nhật hoặc không phải hình chữ nhật khi mặt cắt đó đạt được sau quá trình cán, tức là các sản phẩm đã được "gia công sau khi cán" (ví dụ: các sản phẩm đã được vát hoặc bo tròn ở các cạnh).

Các sản phẩm thép nằm trong phạm vi đề nghị điều tra này là những sản phẩm trong đó: (1) hàm lượng sắt chiếm đa số theo trọng lượng so với mỗi nguyên tố khác có trong đó; và (2) hàm lượng các-bon từ 2% trở xuống theo trọng lượng.

Sản phẩm bị đề nghị điều tra cũng bao gồm thép chống ăn mòn đã được gia công thêm ở một quốc gia thứ ba, bao gồm nhưng không giới hạn ở các hoạt động như ủ, tôi, sơn, đánh vecni, cắt, đục lỗ và/hoặc cắt lát hoặc bất kỳ quá trình gia công nào khác mà sẽ không loại hàng hóa đó khỏi phạm vi điều tra nếu được thực hiện tại quốc gia sản xuất thép chống ăn mòn bị đề nghị điều tra.

Một số sản phẩm được loại trừ khỏi phạm vi của các cuộc điều tra này bao gồm:

  • Các sản phẩm thép cán phẳng được mạ hoặc phủ thiếc, chì, crom, oxit crom, cả thiếc và chì ("tấm terne") hoặc cả crom và oxit crom ("thép không thiếc"), có hoặc không được sơn, đánh vecni hoặc phủ nhựa hoặc các chất phi kim khác ngoài lớp phủ kim loại;
  • Tấm thép ốp (clad products) có có độ dày tổng cộng từ 4,7625 mm trở lên, chiều rộng lớn hơn 150 mm và chiều rộng lớn ít nhất gấp đôi độ dày;
  • Một số sản phẩm tấm thép ốp bằng thép không gỉ cán phẳng bao gồm ba lớp thép các-bon cán phẳng chống ăn mòn có độ dày tổng cộng nhỏ hơn 4,75 mm, trong đó có một tấm ốp thép các-bon ở cả hai mặt với theo tỷ lệ thép không gỉ là 20%-60%-20%.

Ngoài ra, bất kỳ sản phẩm nào đã nằm trong lệnh thuế chống bán phá giá hiện hành đối với thép chống ăn mòn từ Đài Loan (Trung Quốc) cũng bị loại khỏi phạm vi điều tra thuế chống bán phá giá trong vụ việc này.

Các sản phẩm bị yêu cầu điều tra hiện được phân loại trong Biểu thuế quan hài hòa của Hoa Kỳ (HTSUS) theo các mã: 7210.30.0030, 7210.30.0060, 7210.41.0000, 7210.49.0030, 7210.49.0040, 7210.49.0045, 7210.49.0091, 7210.49.0095, 7210.61.0000, 7210.69.0000, 7210.70.6030, 7210.70.6060, 7210.70.6090, 7210.90.6000, 7210.90.9000, 7212.20.0000, 7212.30.1030, 7212.30.1090, 7212.30.3000, 7212.30.5000, 7212.40.1000, 7212.40.5000, 7212.50.0000, 7212.60.0000, 7225.91.0000, 7225.92.0000, 7226.99.0110 và 7226.99.0130.

Các sản phẩm bị yêu cầu điều tra cũng có thể khai vào các mã: 7210.90.1000, 7215.90.1000, 7215.90.3000, 7215.90.5000, 7217.20.1500, 7217.30.1530, 7217.30.1560, 7217.90.1000, 7217.90.5030, 7217.90.5060, 7217.90.5090, 7225.99.0090, 7226.99.0180, 7228.60.6000, 7228.60.8000 và 7229.90.1000.

Lượng, kim ngạch và giá nhập khẩu trung bình các sản phẩm bị đề nghị điều tra từ các nguồn vào Hoa Kỳ

Theo thống kê trong đơn yêu cầu, lượng, kim ngạch và giá nhập khẩu trung bình các sản phẩm bị đề nghị điều tra từ các nguồn vào Hoa Kỳ trong giai đoạn từ năm 2021 đến nay cụ thể như sau:

                                                   Lượng nhập khẩu thép CORE vào thị trường Hoa Kỳ

                                                                                                                                                           Đơn vị: tấn

Nước/Vùng lãnh thổ

2021

2022

2023

6 tháng đầu năm 2023

6 tháng đầu năm 2024

Ca-na-đa

1.091.894

1.016.583

1.046.198

541.156

592.250

Mê-hi-cô

577.560

558.832

525.506

267.089

328.292

Việt Nam

605.044

638.655

266.919

122.049

468.167

Bra-xin

220.959

200.990

209.729

115.218

135.660

Đài Loan

403.396

296.733

173.488

69.964

205.975

UAE

159.404

105.730

77.282

23.120

62.403

Úc

52.956

47.423

73.942

53.975

44.891

Nam Phi

117.653

122.239

73.347

23.918

56.348

Hà Lan

47.946

35.325

29.978

9.191

24.428

Thổ Nhĩ Kỳ

127.772

155.192

12.581

8.062

29.552

Các nguồn khác

816.718

837.183

734.776

365.009

426.699

Tổng cộng

4.221.301

4.014.886

3.223.745

1.598.751

2.374.667

                                            Kim ngạch nhập khẩu thép CORE vào thị trường Hoa Kỳ

                                                                                                                                                         Đơn vị: USD

Nước/Vùng lãnh thổ

2021

2022

2023

6 tháng đầu năm 2023

6 tháng đầu năm 2024

Ca-na-đa

1.311.126.406

1.417.570.268

1.279.318.815

679.524.943

732.966.476

Mê-hi-cô

981.025.270

927.564.722

712.350.127

359.194.538

453.813.535

Việt Nam

625.893.075

751.415.315

241.640.988

109.210.086

380.301.567

Đài Loan

475.624.970

451.942.673

195.401.098

79.929.221

229.357.453

UAE

140.557.471

128.115.630

66.568.227

18.893.913

47.330.621

Bra-xin

287.479.040

263.068.698

194.222.775

105.747.620

119.318.936

Úc

76.439.509

73.122.780

82.650.923

55.691.560

56.443.578

Nam Phi

117.860.898

167.400.764

63.523.129

19.205.331

49.723.247

Hà Lan

47.727.101

45.771.061

33.755.918

10.826.865

27.436.663

Thổ Nhĩ Kỳ

137.905.452

181.978.721

12.079.582

7.773.563

23.572.069

Các nguồn khác

1.028.907.445

1.248.638.568

942.381.527

469.111.229

520.353.606

Tổng cộng

5.230.546.637

5.656.589.200

3.823.893.109

1.915.108.869

2.640.617.751

Các bước tiếp theo

Tại Hoa Kỳ, các cuộc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp bao gồm hai giai đoạn: sơ bộ và cuối cùng, liên quan đến hai cơ quan: Bộ Thương mại Hoa Kỳ và Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ.

Bộ Thương mại Hoa Kỳ ("DOC") sẽ đưa ra kết luận về việc hàng nhập khẩu từ các quốc gia bị điều tra có bị bán phá giá tại Hoa Kỳ hay không và xác định mức thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng. Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng sẽ đưa ra kết luận về việc chính phủ Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Việt Nam có trợ cấp cho hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ hay không và xác định mức thuế chống trợ cấp sẽ được áp dụng.

Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ ("USITC") sẽ đưa ra kết luận về việc hàng nhập khẩu từ các quốc gia bị điều tra có gây thiệt hại đáng kể hay đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất của Hoa Kỳ hay không.

Để áp dụng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp chính thức, cả hai cơ quan phải đưa ra kết luận "khẳng định" những vấn đề trên.

Điều tra bán phá giá của Bộ Thương mại Hoa Kỳ

Đến ngày 25 tháng 9 năm 2024, trên cơ sở xem xét đơn yêu cầu, DOC sẽ đưa ra quyết định có khởi xướng điều tra hay không.

Sau đó, DOC sẽ ban hành một bảng câu hỏi và tính toán biên độ phá giá cho một hoặc nhiều nhà sản xuất tại mỗi quốc gia bị điều tra. Những nhà sản xuất này được gọi là "bị đơn bắt buộc". Quyết định về việc nhà sản xuất nào sẽ nhận được bảng câu hỏi sẽ dựa trên khối lượng xuất khẩu. DOC có thể chỉ chọn một nhà sản xuất từ ​​mỗi quốc gia bị điều tra để trả lời bảng câu hỏi nếu nhà sản xuất đó chiếm đến 80%-85% lượng xuất khẩu. Nếu không, DOC sẽ chọn hai hoặc nhiều nhà sản xuất từ ​​mỗi quốc gia bị điều tra.

Các công ty được chọn làm bị đơn bắt buộc sẽ được xác định biên độ phá giá dựa trên dữ liệu thực tế mà họ cung cấp. Nếu một công ty từ chối trả lời bảng câu hỏi, công ty đó sẽ được được xác định biên độ phá giá dựa trên "các dữ kiện bất lợi có sẵn". Đây là mức biên độ có tính chất trừng phạt do công ty không hợp tác cung cấp thông tin cho Bộ Thương mại Hoa Kỳ. Mức biên độ này dựa trên biên độ bán phá giá trong đơn yêu cầu. Đối với Việt Nam, biên độ phá giá trong trong đơn yêu cầu là 158,83%.

Vì Bộ Thương mại Hoa Kỳ coi Việt Nam là "nền kinh tế phi thị trường" ("NME"), Bộ Thương mại Hoa Kỳ bắt đầu cuộc điều tra của mình với giả định rằng tất cả các nhà xuất khẩu đều là một phần của một "thực thể toàn Việt Nam" do chính phủ điều hành, sẽ phải chịu biên độ phá giá "toàn Việt Nam". Biên độ này thường dựa trên "các dữ kiện bất lợi có sẵn". Các công ty chứng minh được sự độc lập với chính phủ Việt Nam có thể nhận được mức thuế bán phá giá riêng dựa trên dữ liệu thực tế của họ.

Tất cả các nhà sản xuất khác từ mỗi quốc gia (ngoại trừ những nhà sản xuất được phát hành bảng câu hỏi) sẽ phải chịu mức thuế cho "tất cả các nhà sản xuất khác" của mỗi quốc gia, thông thường được tính là mức thuế trung bình có trọng số của các mức thuế được áp dụng cho những người trả lời bắt buộc ở mỗi quốc gia.

Bản câu hỏi điều tra sẽ yêu cầu thông tin chi tiết về doanh số bán hàng tại Hoa Kỳ và doanh số bán hàng trong nước đối với sản phẩm thép CORE của doanh nghiệp (giá giao dịch cụ thể, chi phí bán hàng trực tiếp, chi phí vận chuyển, v.v.) và chi phí sản xuất trong thời kỳ điều tra ("POI"). Thời kỳ điều tra trong vụ việc này sẽ là từ ngày 1 tháng 7 năm 2023 đến ngày 30 tháng 6 năm 2024 đối với Úc, Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Hà Lan, Nam Phi, Đài Loan (Trung Quốc), Thổ Nhĩ Kỳ và UAE, và từ ngày 1 tháng 1 năm 2024 đến ngày 30 tháng 6 năm 2024 đối với Việt Nam. Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng sẽ phát hành nhiều bản câu hỏi bổ sung để làm rõ thông tin mà các công ty cung cấp trong bản trả lời câu hỏi ban đầu. Đối với các công ty, gánh nặng trả lời các bản câu hỏi sẽ tăng đáng kể nếu: (1) các công ty liên kết với bên trả lời bắt buộc cũng sản xuất và/hoặc bán hàng hóa liên quan tại các quốc gia liên quan; và/hoặc (2) các nguyên liệu chính được sử dụng để sản xuất hàng hóa liên quan được mua từ các nhà cung cấp liên kết.

Trong vòng 140 ngày sau khi cuộc điều tra được khởi xướng (khoảng vào ngày 12 tháng 2 năm 2025), Bộ Thương mại Hoa Kỳ phải đưa ra kết luận sơ bộ về việc có hành vi bán phá giá hay không và nếu có, thì biên độ bán phá giá ước tính cho mỗi công ty bị điều tra (Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể và thường hoãn kết luận sơ bộ thêm 50 ngày). Nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ đưa ra kết luận sơ bộ khẳng định việc bán phá giá, Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới ("CBP") sẽ đình chỉ việc quyết toán thuế các lô hàng nhập khẩu thép CORE từ các quốc gia liên quan và yêu cầu các nhà nhập khẩu nộp khoản tiền ký quỹ bằng với biên độ bán phá giá sơ bộ được tính cho nhà xuất khẩu nhân với giá trị nhập khẩu của hàng hóa. Thông thường, việc đình chỉ quyết toán thuế bắt đầu vào ngày quyết định sơ bộ của Bộ Thương mại Hoa Kỳ được công bố trên Công báo Liên bang. Tuy nhiên, nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ xác định có "tình huống nghiêm trọng ", việc đình chỉ có thể áp dụng hồi tố đối với các lô hàng nhập khẩu được thực hiện trong vòng 90 ngày trước khi quyết định sơ bộ được công bố.

Cán bộ điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ thường sẽ đến tận trụ sở của bị đơn bắt buộc để tiến hành thẩm tra tại chỗ nhằm xác minh tính chính xác của thông tin được cung cấp trong các bản trả lời câu hỏi. Việc này thường được thực hiện sau khi có kết luận sơ bộ. Nếu các bản trả lời câu hỏi không đầy đủ hoặc không thể xác minh được tính chính xác của chúng, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ tính toán biên độ phá giá dựa trên "các dữ kiện bất lợi có sẵn", thường có nghĩa là chấp nhận biên độ phá giá do bên yêu cầu tính toán. Việc thẩm tra tại chỗ là một trong những khía cạnh khó khăn nhất của cuộc điều tra.

Để thẩm tra tại chỗ, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ cử một nhóm điều tra viên đến trụ sở của bị đơn bắt buộc và yêu cầu truy cập vào hệ thống kế toán và quản trị của công ty, bao gồm hồ sơ kế toán, hệ thống bán hàng và chi phí. Nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ xác định rằng họ không thể tiến hành thẩm tra tại chỗ do lo ngại về vấn đề đi lại hoặc an toàn, họ có thể tiến hành thẩm tra thông qua một nền tảng trực tuyến (ví dụ: Webex/Teams) như một giải pháp thay thế.

Trong vòng 75 ngày sau khi có kết luận sơ bộ, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ ban hành kết luận cuối cùng. Cũng giống như kết luận sơ bộ, Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể và thường hoãn thời hạn này thêm 60 ngày nữa. Kết luận cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ dựa trên thông tin đã xác minh, các phiên tham vấn công khai và các bản lập luận do luật sư liên quan đến vụ việc đệ trình. Nếu đưa ra kết luận về việc biên độ phá giá bằng không hoặc chỉ ở mức "tối thiểu" (tức là dưới 2,00%), cuộc điều tra sẽ kết thúc mà không áp thuế chống bán phá giá. Nếu kết luận cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ khẳng định việc bán phá giá, vụ việc sẽ được chuyển đến Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ để có kết luận cuối cùng về thiệt hại của ngành sản xuất Hoa Kỳ. Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng sẽ hướng dẫn cơ quan hải quan tiếp tục đình chỉ việc quyết toán thuế các lô hàng thép CORE nhập khẩu từ các quốc gia liên quan và yêu cầu nộp tiền ký quỹ theo biên độ phá giá chính thức được xác định cho mỗi nhà xuất khẩu. Các công ty có biên độ phá giá bằng không hoặc ở mức tối thiểu sẽ được loại khỏi lệnh áp thuế chống bán phá giá (nếu được ban hành).

Điều tra trợ cấp của Bộ Thương mại Hoa Kỳ

Tương tự như cuộc điều tra bán phá giá, Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng sẽ đưa ra quyết định về việc khởi xướng điều tra trợ cấp trước ngày 25 tháng 9 năm 2024 trên cơ sở xem xét đơn yêu cầu.

Sau đó, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ phát hành bảng câu hỏi điều tra trợ cấp cho các công ty Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Việt Nam được chọn để điều tra, cũng như cho chính phủ Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Việt Nam. Thông thường, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ chọn hai hoặc ba nhà xuất khẩu nước ngoài lớn nhất từ ​​mỗi quốc gia để trả lời bảng câu hỏi. Một lần nữa, những người này được gọi là "bị đơn bắt buộc". Bảng câu hỏi CVD sẽ tìm kiếm thông tin về các khoản trợ cấp bị cáo buộc cho thời kỳ điều tra (năm tài chính gần đây nhất đã hoàn thành - tức là năm 2023), cũng như cho các năm trước. Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể sẽ phát hành một hoặc nhiều bảng câu hỏi bổ sung để làm rõ hoặc tìm kiếm thông tin bổ sung.

Trong vòng 65 ngày sau khi cuộc điều tra trợ cấp được khởi xướng (khoảng ngày 29 tháng 11 năm 2024), Bộ Thương mại Hoa Kỳ phải đưa ra kết luận sơ bộ về việc có trợ cấp hay không và nếu có, thì ước tính mức trợ cấp đối với mỗi công ty bị điều tra (Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể và thường hoãn kết luận sơ bộ thêm 65 ngày). Nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ đưa ra kết luận sơ bộ khẳng định việc trợ cấp, tương tự như trong điều tra bán phá giá, cơ quan hải quan sẽ đình chỉ việc quyết toán thuế các lô hàng thép CORE nhập khẩu từ Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Việt Nam và yêu cầu nhà nhập khẩu nộp khoản tiền ký quỹ bằng với mức thuế chống trợ cấp sơ bộ được tính cho nhà xuất khẩu nhân với giá trị hàng hóa nhập khẩu. Thông thường, việc đình chỉ quyết toán thuế bắt đầu vào ngày quyết định sơ bộ của Bộ Thương mại Hoa Kỳ được công bố trên Công báo Liên bang. Tuy nhiên, nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ xác định có "tình huống nghiêm trọng", việc đình chỉ có thể áp dụng hồi tố đối với các lô hàng nhập khẩu được thực hiện trong vòng 90 ngày trước khi quyết định sơ bộ được công bố.

Điều tra viên của Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng sẽ đến trụ sở của bị đơn bắt buộc để tiến hành thẩm tra tại chỗ nhằm xác minh tính chính xác của các thông tin được cung cấp trong bản trả lời câu hỏi. Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng sẽ tiến hành thẩm tra tại chỗ các thông tin do chính phủ Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Việt Nam cung cấp. Tương tự như trong điều tra bán phá giá, Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể tiến hành "thẩm tra trực tuyến" thay thế cho việc thẩm tra tại chỗ.

Trong vòng 75 ngày sau khi có kết luận sơ bộ, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ ban hành kết luận cuối cùng. Kết luận cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ dựa trên các thông tin đã thẩm tra, các phiên tham vấn công khai và các bản lập luận do luật sư liên quan đến vụ việc đệ trình. Nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ kết luận không có trợ cấp hoặc chỉ trợ cấp ở mức "tối thiểu" (tức là dưới 1,00%), cuộc điều tra sẽ kết thúc mà không áp dụng thuế chống trợ cấp. Nếu kết luận cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ khẳng định có trợ cấp, vụ việc sẽ được chuyển đến Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ để có kết luận cuối cùng về thiệt hại của ngành sản xuất Hoa Kỳ. Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng sẽ hướng dẫn cơ quan hải quan tiếp tục đình chỉ việc quyết toán thuế các lô hàng thép CORE nhập khẩu từ Bra-xin, Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Việt Nam, và yêu cầu nộp tiền ký quỹ theo mức trợ cấp chính thức được xác định cho từng nhà xuất khẩu. Các công ty có mức trợ cấp bằng không hoặc mức tối thiểu sẽ được loại khỏi lệnh áp thuế chống trợ cấp (nếu được ban hành).

Điều tra thiệt hại của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ

Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ hiện đang lên lịch đưa ra kết luận sơ bộ (tức là các Ủy viên sẽ bỏ phiếu) chậm nhất là ngày 21 tháng 10 năm 2024. Cuộc điều tra sơ bộ sẽ diễn ra rất nhanh. Tiêu chuẩn pháp lý mà Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ phải áp dụng để đưa ra quyết định sơ bộ của mình là rất thấp. Về cơ bản, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ phải đưa ra kết luận sơ bộ khẳng định về thiệt hại trừ khi rõ ràng là ngành sản xuất Hoa Kỳ không bị thiệt hại hoặc không bị đe dọa thiệt hại. Nếu còn bất kỳ dấu hiệu nghi ngờ nào về thiệt hại cũng buộc Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ phải tiếp tục điều tra. Vì tiêu chuẩn này quá thấp nên rất khó để chấm dứt một cuộc điều tra ở giai đoạn sơ bộ. Trong giai đoạn điều tra cuối cùng, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ có nhiều thời gian hơn để tiến hành điều tra và xem xét các sự kiện và lập luận do các bên trình bày. Tiêu chuẩn pháp lý cũng cao hơn ở giai đoạn cuối cùng. Do đó, các nhà sản xuất nước ngoài có nhiều khả năng thành công hơn ở giai đoạn cuối cùng trong cuộc điều tra của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ so với giai đoạn sơ bộ. Tuy nhiên, việc các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu nước ngoài tham gia vào giai đoạn sơ bộ của cuộc điều tra có thể có lợi cho họ để họ có thể định hình các nội dung và vấn đề để Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ xem xét trong giai đoạn cuối.

Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ sẽ đưa ra kết luận sơ bộ về thiệt hại chủ yếu dựa vào thông tin nhận được trong các bản trả lời câu hỏi của các nhà sản xuất Hoa Kỳ, nhà nhập khẩu Hoa Kỳ và nhà sản xuất nước ngoài. Thông thường, ITC sẽ ban hành các bản câu hỏi này cho các bên trong vòng hai đến ba ngày làm việc kể từ ngày nộp đơn (tức là vào khoảng ngày 9 tháng 9 năm 2024); và đặt thời hạn trả lời cho họ một tuần trước cuộc họp cấp kỹ thuật (tức là vào khoảng ngày 19 tháng 9 năm 2024).

Điều tra viên của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ sẽ tổ chức một cuộc họp cấp kỹ thuật vào khoảng ngày 26 tháng 9 năm 2024. Tại cuộc họp, các bên liên quan sẽ có cơ hội trình bày và trả lời các câu hỏi của các điều tra viên. Sau đó, các bên sẽ có cơ hội để nộp các lập luận đã trình bày bằng văn bản (và các bằng chứng hỗ trợ), với thời hạn vào khoảng ngày 1 tháng 10.

Trong giai đoạn cuối cùng, sẽ diễn ra vào mùa hè năm 2025, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ sẽ tiến hành một cuộc điều tra kỹ lưỡng hơn, với tiêu chuẩn xác định thiệt hại cao hơn nhiều. Trong giai đoạn cuối cùng, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ soạn thảo các bản câu hỏi chi tiết hơn để gửi cho các nhà sản xuất Hoa Kỳ, nhà nhập khẩu Hoa Kỳ và nhà sản xuất nước ngoài, cũng như để gửi cho người mua hàng tại Hoa Kỳ (bản câu hỏi cho người mua hàng không có trong giai đoạn sơ bộ). Trước khi phát hành các bản câu hỏi, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ sẽ công bố dự thảo bản câu hỏi để các bên đưa ra ý kiến, đây là một cơ hội quan trọng để đảm bảo các bản câu hỏi thu thập thông tin cần thiết để hỗ trợ cho các lập luận. Sau khi phát hành và nhận được trả lời cho các bản câu hỏi, điều tra viên của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ sẽ chuẩn bị một báo cáo tóm tắt và phân tích các thông tin và dữ liệu được cung cấp trong các bản trả lời câu hỏi, cũng như thông tin được tổng hợp từ giai đoạn sơ bộ của cuộc điều tra và nghiên cứu độc lập của các điều tra viên. Báo cáo của điều tra viên rất quan trọng vì đây là tài liệu chính mà các Ủy viên dựa vào để đánh giá liệu ngành sản xuất Hoa Kỳ có bị thiệt hại đáng kể hay có nguy cơ bị thiệt hại đáng kể do các hàng nhập khẩu hay không. Sau khi báo cáo của điều tra viên được ban hành, các bên có khoảng một tuần để nộp bản lập luận ("bản lập luận trước tham vấn") trình bày lập luận của họ trong việc ủng hộ hoặc phản đối kết luận về thiệt hại (hoặc đe dọa gây ra thiệt hại). Thông thường, một tuần sau thời hạn nộp bản lập luận trước tham vấn, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ sẽ tổ chức phiên tham vấn công khai do các Ủy viên (tức là những người ra quyết định) chủ trì. Trong phiên tham vấn, cả hai bên - Bên yêu cầu ủng hộ việc áp thuế và các nhà sản xuất nước ngoài và nhà nhập khẩu/người mua Hoa Kỳ phản đối việc áp thuế - sẽ có một giờ cho mỗi bên để trình bày lập luận của mình, sau đó là phiên hỏi đáp với các Ủy viên. Riêng đối với phản đối việc áp thuế, điều quan trọng là các nhân chứng trong ngành (như nhà nhập khẩu và người mua Hoa Kỳ) phải tham gia và đưa ra bằng chứng tại phiên tham vấn của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ. Sau phiên tham vấn, các bên có khoảng một tuần để chuẩn bị bản lập luận "sau tham vấn", thường tập trung vào việc bác bỏ lập luận của bên kia và trả lời các câu hỏi cụ thể do các Ủy viên nêu ra tại phiên điều trần. Vài ngày trước kế hoạch bỏ phiếu của các Ủy viên của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ, các bên liên quan có cơ hội cuối cùng để nộp bình luận về vụ việc. Trong khi giai đoạn sơ bộ diễn ra trong khoảng sáu tuần, giai đoạn cuối cùng thường diễn ra trong khoảng bốn tháng.

Tin tức khác