Quy trình điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp của Brazil

Biện pháp chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp: Các biện pháp để ứng phó với hành vi lẩn tránh thuế CBPG/CTC (gọi ngắn gọn là biện pháp chống lẩn tránh thuế) đã được cơ quan có thẩm quyền các nước điều chỉnh tại các văn bản pháp luật và áp dụng trên thực tiễn thông qua các vụ việc điều tra. Biện pháp chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC là biện pháp sử dụng để chống lại hoặc loại bỏ tác động tiêu cực của các hành vi cố ý lẩn tránh biện pháp CBPG/CTC mà nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngoài thực hiện dưới các hình thức khác nhau. Bản chất của biện pháp này nhằm mở rộng phạm vi áp dụng các biện pháp CBPG/CTC để bao gồm thêm không chỉ các sản phẩm đã bị điều tra trong vụ kiện gốc (vụ kiện ban đầu) mà cả những sản phẩm gần giống của doanh nghiệp xuất khẩu bị đơn hoặc các sản phẩm tương tự nhưng có nguồn gốc xuất xứ từ các nước xuất khẩu khác.

Lưu ý rằng, biện pháp PVTM bao gồm biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.[1] Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn ở biện pháp chống lẩn tránh biện pháp CBPG/CTC do việc lẩn tránh biện pháp CBPG/CTC là phổ biến và các nước hiếm khi hoặc thậm chí là không điều tra chống lẩn tránh biện pháp tự vệ.

Vấn đề lẩn tránh thuế CBPG/CTC và biện pháp chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC là vấn đề tương đối mới, phức tạp. Hiện nay, một số nước có quy định pháp luật (nội luật) và đã thực thi áp dụng luật này (sẽ được trình bày cụ thể dưới đây). Tuy nhiên, hiện tại WTO không có quy định riêng về hành vi lẩn tránh thuế CBPG/CTC và các biện pháp chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC. ADA và SCMA cũng không quy định cụ thể về vấn đề biện pháp lẩn tránh thuế CBPG/CTC và chống lẩn tránh thuế CBPG/CTC. Trong vòng đàm phán Uruguay, các bên đã đưa ra được một bản dự thảo sửa đổi Đạo luật Chống bán phá giá 1979 (Antidumping Code) thông qua Dự thảo Dunkel về Đạo luật cuối cùng (Dunkel Draft Final Act) để cho phép có một số biện pháp làm ngăn chặn việc lẩn tránh thuế CBPG với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, sau đó Quyết định của các Bộ trưởng (Ministerial Decision)[2] được thông qua vào cuối vòng đàm phán đã thay thế quy định chống lẩn tránh thuế trong dự thảo nói trên.

Như đã nói ở trên, Quyết định Bộ trưởng liên quan đến hành vi lẩn tránh biện pháp CBPG nhấn mạnh rằng do không thống nhất được việc đưa ra các quy định chống lẩn tránh thuế tại ADA trong vòng đàm phán Uruguay, các thành viên WTO cần phải nỗ lực để xử lý vấn đề lẩn tránh và chống lẩn tránh. Tuy nhiên, dù có quan ngại về vấn đề chống lẩn tránh như đã được thể hiện tại Quyết định của Bộ trưởng, cụm từ “lẩn tránh các biện pháp chống bán phá giá” sử dụng vẫn còn chưa rõ ràng vì thiếu định nghĩa về lẩn tránh hoặc phạm vi áp dụng các biện pháp chống lẩn tránh. Do đó, có thể thấy việc xác định các hành vi lẩn tránh sẽ tùy thuộc vào nội luật của từng nước và giúp các thành viên WTO có thẩm quyền không hạn chế liên quan đến việc định nghĩa thuật ngữ ‘lẩn tránh’.

Nguyên tắc tương tự cũng được hiểu là áp dụng cho điều tra chống lẩn tránh thuế chống trợ cấp.[3]

b. Các hình thức lẩn tránh thuế chống bán phá giá/ chống trợ cấp

Có rất nhiều cách để các nhà xuất khẩu của nước đang bị áp thuế thực hiện hành vi lẩn tránh thuế CBPG/CTC. Ví dụ, công ty X (của nước A) xuất khẩu sản phẩm Y sang nước B và bị nước B áp thuế CBPG/CTC, có thể phân thành 4 loại hành vi cơ bản sau:

  1. Công ty X chuyển/xuất khẩu từng linh phụ kiện rời của sản phẩm Y sang chi nhánh của mình tại nước B (gọi là Công ty X-B), sau đó X-B lắp ráp mặt sản phẩm Y từ các linh phụ kiện nhập khẩu này. Trong trường hợp này, nước B không thể áp thuế CBPG/CTC đối với linh phụ kiện lắp ráp sản phẩm Y vì linh phụ kiện không thể được xem là sản phẩm tương tự (like products) với sản phẩm Y do có các đặc điểm, tính chất vật lý khác nhau;
  2. Công ty X xuất khẩu các linh phụ kiện rời của sản phẩm Y sang một công ty liên quan tại nước C (Công ty X-C). X-B sau đó nhập khẩu các linh phụ kiện từ X-C và tiến hành lắp ráp tại nước B. Trong trường hợp này, nước B không thể áp thuế CBPG/CTC đối với sản phẩm Y do hàng hóa được sản xuất tại nước C không thuộc nhóm các nước/vùng lãnh thổ bị áp thuế của vụ việc điều tra CBPG/CTC (nước A);
  3. Công ty X chuyển một phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm Y từ nước A sang nước B hoặc nước C để bán tại nước B hoặc xuất khẩu từ nước C sang nước B. Khác với hai trường hợp nêu trên, trường hợp này phức tạp hơn do các nhà sản xuất xuất khẩu lẩn tránh thuế thông qua di chuyển dây chuyền sản xuất nhằm thay đổi nguồn gốc xuất khẩu của hàng hóa, do đó nước B không thể áp thuế CBPG/CTC đang áp đối với hàng nhập từ nước C hoặc sản phẩm được sản xuất tại thị trường nội địa nước B.
  4. ty X thay đổi một vài đặc tính không đáng kể của sản phẩm Y, nhằm tạo ra một mặt hàng mới (nhưng thực chất là biến thể của sản phẩm Y) và xuất khẩu sang nước B.

            Nhìn chung, việc phân loại hành vi lẩn tránh có thể như sau[4]:

            - lẩn tránh đơn giản và lẩn tránh phức tạp (dựa trên mức độ phức tạp trong các phương pháp lẩn tránh được sử dụng).

Lẩn tránh đơn giản liên quan đến các phương pháp đơn giản do nhà xuất khẩu/nhà sản xuất sử dụng để lẩn tránh thuế, ví dụ chuyển tải, thông báo mã hải quan sai và các hình thức gian lận khác- hành vi này đã bị hầu hết các thành viên WTO coi là lẩn tránh.[5]

Ngược lại, lẩn tránh phức tạp bao gồm sửa đổi nhỏ, lẩn tránh thông qua nước thứ 3, sản phẩm phát triển sau (phiên bản sau) (later-developed product), thay đổi giá các dạng khác nhau của sản phẩm (fictious markets)…Hành vi lẩn tránh phức tạp này rất gây tranh cãi khi các thành viên WTO thảo luận về vấn đề lẩn tránh thuế do thường liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và do đó khó để phân biệt với hành vi thương mại thông thường hơn.

            - lẩn tránh liên quan đến sản phẩm, lẩn tránh liên quan đến nước.

Cách phân loại này liên quan đến hai yếu tố quan trọng trong một lệnh áp thuế CBPG/CTC.

Do thuế CBPG/CTC thường áp với một sản phẩm nhất định, theo quy định tại ADA, SCMA yêu cầu phải xác định có hành vi phá giá/trợ cấp và có thiệt hại đối với sản phẩm “tương tự” (like product) để kết luận về việc có cần thiết phải áp thuế CBPG/CTC hay không. Theo đó, sản phẩm tương tự là “một sản phẩm mà giống ở mọi khía cạnh với sản phẩm bị điều tra, hoặc, nếu không có sản phẩm nào như thế, thì là một sản phẩm khác mà mặc dù không giống ở mọi khía cạnh nhưng có các đặc điểm gần giống với sản phẩm bị điều tra.”[6] Một số hành vi lẩn tránh thuộc phân loại này vì liên quan đến phạm vi sản phẩm: (i) lẩn tránh side stream (lẩn tránh mà có sự sửa đổi hoặc thay đổi nhỏ với sản phẩm hoặc với sản phẩm phát triển sau này); (ii) lẩn tránh thượng nguồn (upstream), xảy ra khi nhà xuất khẩu/sản xuất xây dựng nhà máy lắp ráp ở nước nhập khẩu và vận chuyển các linh kiện chưa được lắp ráp của sản phẩm mà không bị áp thuế CBPG/CTC tới nhà máy này, sau đó lắp ráp tại nước nhập khẩu sử dụng các kỹ thuật, công nghệ rất cơ bản với rất ít trị giá gia tăng; (iii) và lẩn tránh hạ nguồn (downstream), xảy ra khi nhà xuất khẩu/sản xuất xuất khẩu sản phẩm có chứa linh kiện thuộc phạm vi áp thuế CBPG/CTC.

Ngoài ra, một yếu tố quan trọng khác là vấn đề “nước cụ thể” hoặc “nhà sản xuất cụ thể”, ví dụ chuyển tải, lẩn tránh thông qua nước thứ ba và lẩn tránh qua hệ thống các công ty đa quốc gia (country-hopping) vv. Điều này xảy ra vì thuế CBPG/CTC được áp đối với một sản phẩm cụ thể từ một nước cụ thể [7], và ‘sản phẩm tương tự’ nếu được xuất khẩu từ nước khác (không thuộc nước bị điều tra) thì không bị áp thuế CBPG/CTC. Do đó, một số hành vi lẩn tránh liên quan đến việc chuyển đổi sang nước thứ 3. Một mặt, các hành vi này cũng liên quan đến quy tắc xuất xứ vì các sản phẩm có thể được thay đổi nhãn mác xuất xứ một cách dễ dàng nếu áp dụng quy tắc xuất xứ để chứng minh sản phẩm đó đáp ứng các quy tắc để được coi là có xuất xứ từ nước thứ 3. Điều này thậm chí có thể đúng trong trường hợp chỉ một bộ phận nhỏ của sản phẩm bị nghi ngờ lẩn tránh là được lắp ráp, gia công tại nước thứ 3.[8] Vấn đề còn phức tạp hơn khi phải phân biệt rõ 2 khái niệm ‘nước xuất khẩu’ và ‘nước xuất xứ’ trong thương mại quốc tế. ADA quy định rằng một biện pháp CBPG chỉ áp dụng với sản phẩm từ một (số) nước xuất khẩu cụ thể chứ không áp với nước xuất xứ, và sẽ phải tiến hành một cuộc điều tra chống bán phá giá mới nếu có sự thay đổi về nước xuất khẩu. Khi đó, sản phẩm được thay đổi nhãn mác (được xuất khẩu sang nước thứ 3 để lấy xuất xứ từ nước này) sẽ không bị áp thuế CBPG theo lệnh áp thuế ban đầu (đang áp) do sản phẩm này không còn được xuất khẩu từ nước bị áp thuế, trừ phi khởi xướng một cuộc điều tra chống bán phá giá mới đối với nước thứ 3 này. SCMA cũng quy định[9] trong trường hợp sản phẩm không được nhập khẩu trực tiếp từ nước xuất xứ mà được xuất khẩu vào nước nhập khẩu từ một nước trung gian thì các quy định của SCMA sẽ áp dụng với nước trung gian này và nước nhập khẩu như giữa nước xuất xứ và nước nhập khẩu.

Các quy định của Brazil về chống lẩn tránh thuế như sau[10]:

  • Nghị quyết 63/2010 của Phòng Ngoại thương (Chamber of Foreign Trade -Camara de Comércio Exterior- CAMEX Resolution 63/2010).
  • Sắc lệnh 21/2010 của Cục Ngoại thương (Foreign Trade Secretariat -Secretaria de Comércio Exterior- SECEX Order 21/2010).
  • Sắc lệnh 14/2011 của SECEX.
  • Sắc lệnh 42/2013 của SECEX (quy định về chống lẩn tránh thuế CBPG).
  • Nghị định Chống bán phá giá (Nghị định số 8058/2013)

Quy định về xuất xứ không ưu đãi (Luật 12.546 năm 2011, Nghị quyết 80/2010 của CAMEX, Sắc lệnh 38/2015 của SECEX và hướng dẫn quy phạm 1169/2011) cũng ngăn chặn việc lẩn tránh thuế CBPG và CTC. Quy định này là về thủ tục xác định, cấp chứng nhận xuất xứ cho hàng nhập khẩu với mục đích ngăn chặn việc lẩn tránh biện pháp chống bán phá giá thông qua sửa đổi nhỏ sản phẩm ở nước thứ 3. Theo đó, Brazil áp dụng tiêu chí về xuất xứ thuần tuý và thành lập cơ sở sản xuất tại nước thứ 3 nhằm lẩn tránh thuế (tariff jump), nhằm ngăn chặn việc gian lận tuyên bố xuất xứ. Theo quy định, nước xuất xứ là nước mà là nơi diễn ra thay đổi đáng kể cuối cùng, cụ thể: có thay đổi về mã áp thuế (mức 4 chữ số) nhưng loại trừ việc chỉ lắp ráp (assembling), đóng gói, lựa chọn, đóng dấu, pha loãng không được coi là thay đổi đáng kể kể cả có làm thay đổi về mã áp thuế.[11]

Khả năng mở rộng phạm vi áp thuế CBPG/CTC nhằm chống lại các hành vi lẩn tránh thuế lần đầu tiên được đề cập tới trong hệ thống quy định pháp luật về phòng vệ thương mại của Brazil vào năm 2008, tại Luật số 11786/2008. Theo đó, điều 10-A của Luật này quy định như sau:

Biện pháp CBPG và CTC có thể được mở rộng với nước thứ ba, và với các phần và bộ phận của sản phẩm là đối tượng của biện pháp áp thuế hiện tại, trong trường hợp xác định có xảy ra việc lẩn tránh thuế mà lẩn tránh việc áp dụng biện pháp áp thuế hiện tại.

Mặc dù điều khoản nêu trên đã giới thiệu về nội dung và khả năng mở rộng áp dụng biện pháp hiện tại trong trường hợp xảy ra lẩn tránh thuế, nhưng không có quy định cụ thể về định nghĩa cũng như quy trình điều tra lẩn tránh thuế.

- Cho tới 02 năm sau, vấn đề này mới được ban hành trong Nghị quyết 63/2010 của Phòng Ngoại thương Brazil (Foreign Trade Chamber – CAMEX). Nghị quyết này quy định việc mở rộng biện pháp CBPG/CTC với nước thứ 3 nếu có hành vi lẩn tránh thuế để làm giảm hiệu quả của biện pháp CBPG/CTC do Brazil áp. Các biện pháp này có thể được mở rộng với linh kiện/bộ phận của sản phẩm bị áp thuế CBPG/CTC với điều kiện là những bộ phận này được xuất khẩu sang Brazil để lẩn tránh thuế CBPG/CTC với hàng thành phẩm nhập khẩu.[12] Theo đó, CAMEX quy định 04 trường hợp lẩn tránh thuế như sau:[13]

(1) Hàng hoá nhập khẩu là một phần hoặc linh kiện của 1 sản phẩm đang bị áp dụng biện pháp CBPG/CTC;

(2) Hàng hoá tương tự được sản xuất ở nước thứ ba có linh phụ kiện có nguồn gốc xuất xứ từ nước đang bị áp thuế CBPG/CTC;

(3) Hàng hoá đang bị áp thuế CBPG/CTC nhưng có một số thay đổi nhỏ không làm thay đổi mục đích sử dụng và bản chất của hàng hoá; và

(4) Các hành vi khác làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả của biện pháp CBPG/CTC đang áp dụng.

Việc mở rộng biện pháp CBPG/CTC sẽ không áp với sản phẩm mà linh kiện xuất xứ từ nước bị áp biện pháp chiếm ít hơn 60% tổng chi phí nguyên vật liệu đầu vào hoặc trị giá gia tăng xuất xứ từ nước không bị áp thuế chiếm hơn 25% tổng trị giá sản xuất sản phẩm.

Quy định này cho thấy sự quan tâm của Brazil đối với việc chống lại hành vi lẩn tránh. Tuy nhiên, quy định này sẽ được tiến hành thế nào và thủ tục điều tra sẽ được tiến hành thế nào thì chưa được quy định cụ thể. Nghị quyết này quy định rằng việc mở rộng biện pháp CBPG/CTCsẽ xem xét các yếu tố như:

- sự thay đổi về xu hướng thương mại, sau khi khởi xướng điều tra CBPG/CTC mà dẫn tới áp thuế PVTM, mà không có lý do chính đáng giải thích cho sự thay đổi này;

- bằng chứng về việc trung hoà (neutralize)/giảm hiệu quả tác động của biện pháp CBPG/CTC được áp (liên quan đến giá và/hoặc lượng sản phẩm); và

- trong vụ việc CBPG, bằng chứng về việc xuất khẩu hoặc bán hàng thấp hơn trị giá thông thường được xác định trước đây tại vụ điều tra ban đầu.

Do tương đối lỏng lẻo và mang tính chung chung, trường hợp lẩn tránh thuế thứ (4) đã bị loại trừ khỏi phạm vi định nghĩa các trường hợp lẩn tránh thuế.

- Sau đó, Brazil tiếp tục ban hành Sắc lệnh 21/2010 hướng dẫn thực thi Nghị quyết 63/2010 quy định chi tiết hơn về việc khởi xướng và tiến hành điều tra chống lẩn tránh thuế. Sắc lệnh 21/2010 định nghĩa các hành vi lẩn tránh thuế và các bên có liên quan trong vụ việc, các điều kiện bắt buộc để khởi xướng một vụ việc điều tra và quy trình và các bước của việc rà soát chống lẩn tránh thuế. Do đó, trên thực tế, các điều khoản quy định về lẩn tránh thuế được coi là “đầy đủ” mà cho phép tiến hành rà soát và mở rộng lệnh áp thuế CBPG chỉ bắt đầu có hiệu lực từ năm 2010. Theo quy định của Brazil, việc mở rộng áp dụng biện pháp CBPG/CTC đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước thứ 3, cũng như đối với các linh kiện, bộ phận của hàng hóa đang bị áp dụng biện pháp trong trường hợp cơ quan điều tra được thông báo rằng có hành vi gian lận làm ảnh hưởng tới hiệu quả của các biện pháp CBPG/CTC đang áp. Quy định cũng chỉ ra rằng biện pháp mở rộng này nhằm đảm bảo tính hiệu quả của các biện pháp CBPG/CTC đang áp dụng đối với hàng nhập khẩu. Đối tượng được hướng đến trong các vụ việc có hiện tượng gian lận là các sản phẩm giống y hệt hoặc tương tự với hàng hóa thuộc đối tượng điều tra hoặc linh phụ kiện của hàng hóa đang bị áp dụng biện pháp khi xuất khẩu sang nước đang áp dụng biện pháp thì có thể coi đây là hành vi lẩn tránh thuế.

Trong giai đoạn 2012-2013, số biện pháp phòng vệ thương mại do Brazil áp dụng tăng gần gấp ba, từ 16 lên 42 biện pháp. Song song với đó là sự gia tăng nhập khẩu vào Brazil từ năm 2009 - 2013 do hệ quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu, khi mà các nước tìm kiếm các thị trường tiêu thụ ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này, ví dụ như Brazil.

- Trong năm 2013, để phản ứng với sự gia tăng nhanh chóng lượng nhập khẩu và là một phần của mục tiêu ngoại thương và các biện pháp được đề ra trong “Kế hoạch Brazil vĩ đại hơn”, Brazil đã ban hành Nghị định 8058/2013 về CBPG hợp nhất các quy định về điều tra, khởi xướng, thực thi lệnh áp thuế CBPG vào chung một quy định (có hiệu lực từ ngày 01/10/2013). Chương VII của Nghị định này quy định về việc rà soát lệnh áp thuế CBPG và cam kết giá, bao gồm các rà soát liên quan đến phạm vi áp thuế và việc thu thuế - chính là những quy định về điều tra lẩn tránh thuế. Việc thay đổi trong quy định pháp luật điều tra CBPG, bao gồm điều tra chống lẩn tránh, là bước đầu tiên trong việc tái cấu trúc hệ thống quy định pháp luật về PVTM của Brazil.

b. Cơ quan điều tra

Theo Nghị quyết 63/2010, cơ quan điều tra chống lẩn tránh thuế sẽ đồng thời là cơ quan tiến hành điều tra biện pháp gốc ban đầu, là Cục Phòng vệ thương mại (DECOM) trực thuộc Bộ Phát triển, Thương mại và Ngoại thương (MDIC). DECOM tiến hành điều tra tổng hợp các thông tin về nước xuất xứ của hàng hóa bị điều tra hoặc nước xuất xứ của thành phần của sản phẩm bị điều tra.

c. Quy trình điều tra chống lẩn tránh thuế
c.1. Quy trình điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG

- Khởi xướng

Sắc lệnh 42/2013 quy định các thông tin và số liệu sau phải bao gồm trong đơn đề nghị khởi xướng một vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG:

- Chỉ rõ và mô tả chi tiết việc lẩn tránh thuế được quy định tại Điều 121 của Nghị định 8058/2013 (3 trường hợp lẩn tránh thuế);

- Chỉ rõ tất cả các nước có liên quan trong việc lẩn tránh thuế và, nếu có thể, các nhà sản xuất và xuất khẩu, nhà nhập khẩu và các công ty chịu trách nhiệm đối với ngành sản xuất của hàng hóa bị điều tra;

- Mô tả chi tiết sản phẩm, thành phần, đối tượng tiến hành rà soát, bao gồm mã HS của sản phẩm hoặc thành phần có liên quan;

- Các thay đổi trong xu hướng thương mại, chỉ rõ sự thay đổi diễn ra sau khi Brazil áp dụng biện pháp hiện tại mà đang cáo buộc lẩn tránh thuế;

- Bằng chứng khách quan về tác động của biện pháp CBPG hiện tại, bao gồm số liệu về lượng và giá nhập khẩu trung bình của sản phẩm hoặc các thành phần của sản phẩm đang bị điều tra chống lẩn tránh thuế.

- Một số thông tin và bằng chứng khác tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể.

- Quy trình và thủ tục tiến hành điều tra

Theo Sắc lệnh của Cục Ngoại thương số 21/2010, cơ quan điều tra cần tiến hành 4 bước để điều tra một vụ việc chống lẩn tránh thuế:

(i) xem xét liệu có sự gia tăng hàng hoá nào từ các nước khác vào Brazil có liên quan đến hàng hoá đang thuộc đối tượng điều tra sau thời điểm vụ việc điều tra CBPG được tiến hành;

(ii) xem xét liệu có sự gia tăng nhập khẩu hàng hoá là các linh phụ kiện được nhập khẩu từ nước bị điều tra qua các nước thứ ba đang được nhập khẩu vào Brazil từ các nước này hay không;

(iii) xem xét liệu giá bán của các hàng hoá tương tự của các nước thứ ba có thấp hơn giá bán trước khi vụ việc được khởi xướng;

(iv) xem xét liệu các linh phụ kiện từ các quốc gia đang bị điều tra đang chiếm 60% hoặc hơn trong tổng chi phí nguyên vật liệu đầu vào của các nhà sản xuất từ các nước thứ ba cũng xuất khẩu mặt hàng tương tự vào Brazil.

Chỉ bên có liên quan trong vụ việc điều tra áp thuế CBPG gốc hoặc trong lần rà soát gần nhất có thể yêu cầu khởi xướng một vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế. Ngoài ra, trong trường hợp ngoại lệ, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Brazil có thể tự khởi xướng một vụ việc. Bên có liên quan bao gồm:[14]

  1. Các nhà sản xuất sản phẩm bị điều tra của Brazil hoặc hiệp hội ngành hàng có liên quan;
  2. Chính phủ nước xuất khẩu;
  3. Nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu sản phẩm bị điều tra;
  4. Nhà nhập khẩu Brazil của sản phẩm bị điều tra;
  5. Các công ty chịu trách nhiệm cho ngành sản xuất nội địa của Brazil;
  6. Các bên trong nước hoặc nước ngoài khác mà có thể bị ảnh hưởng bởi vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế này, theo quyết định của cơ quan điều tra (DECOM) hoặc SECEX.

Vụ việc điều tra thường kéo dài trong vòng 06 tháng kể từ ngày thông báo khởi xướng vụ việc, trừ trường hợp đặc biệt có thể kéo dài thêm 3 tháng. DECOM có thể gửi bản câu hỏi cho các bên liên quan và có thời hạn 20 ngày để trả lời bản câu hỏi tính từ ngày nhận được bản câu hỏi. Căn cứ đề nghị bằng văn bản, DECOM có thể cho phép gia hạn bản trả lời thêm 10 ngày.

Việc mở rộng phạm vi của lệnh áp thuế CBPG hiện tại thường được xác định riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu sản phẩm bị điều tra đã biết. Mặc dù vậy, nếu như số lượng nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu sản phẩm bị điều tra đã biết này quá lớn, thì:

  1. Trong trường hợp lẩn tránh thuế thứ nhất (hàng hoá nhập khẩu là một phần hoặc linh kiện của 1 sản phẩm đang bị áp dụng biện pháp), DECOM chọn mẫu một số nhà nhập khẩu đại diện % lớn nhất lượng nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ từ hoặc từ nước đang bị áp dụng biện pháp CBPG;
  2. Trong trường hợp lẩn tránh thuế thứ hai và thứ ba (hàng hoá tương tự được sản xuất ở nước thứ ba có linh phụ kiện có nguồn gốc xuất xứ từ nước đang bị áp thuế; hàng hoá đang bị áp thuế nhưng có một số thay đổi nhỏ không làm thay đổi mục đích sử dụng và bản chất của hàng hoá), DECOM lựa chọn các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu đại diện cho % lớn nhất lượng xuất khẩu từ nước xuất khẩu vào Brazil.

Việc mở rộng phạm vi lệnh áp thuế chống bán phá giá sẽ được mở rộng cho tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu, hoặc nhà nhập khẩu được chọn mẫu mà có tham gia trả lời bản câu hỏi.

Biên độ thuế áp dụng sẽ gồm bình quân gia quyền biên độ phá giá áp dụng cho các nhà sản xuất/xuất khẩu mà biên độ của họ được xác định riêng rẽ trong vụ việc gốc hoặc trong các đợt rà soát hành chính gần nhất, không bao gồm biên độ phá giá bằng 0 hoặc biên độ phá giá không đáng kể (de minimis). Trong trường hợp lẩn tránh thuế thứ nhất thì mức thuế chống bán phá giá với các thành phần, linh kiện được áp dụng là mức thuế theo tỷ lệ phần trăm của trị giá hàng hoá (ad valorem). Các nhà sản xuất/xuất khẩu, nhập khẩu được kết luận là không lẩn tránh thuế sẽ không bị áp dụng biện pháp.

Với các nhà sản xuất/xuất khẩu, nhập khẩu đã biết mà không được chọn mẫu, mà có xuất khẩu/nhập khẩu sản phẩm bị điều tra vào Brazil trong giai đoạn điều tra thì vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế với các đối tượng này sẽ chấm dứt và biện pháp chống bán phá giá sẽ không bị mở rộng. Nếu có bằng chứng về việc các nhà sản xuất/xuất khẩu, nhập khẩu đã biết mà không được chọn mẫu, nhưng có tham gia vào việc lẩn tránh thuế, cơ quan điều tra có thể, dựa trên yêu cầu của bên có liên quan hoặc tự khởi xướng một vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế với các đối tượng này.

Với các nhà nhập khẩu mà không bị áp thuế, việc không áp thuế sẽ phụ thuộc vào việc tiếp tục duy trì với cùng một nhà cung cấp.

Với các nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc nhập khẩu mà chưa biết hoặc những người mặc dù được chọn mẫu, nhưng không tham gia cung cấp thông tin, phạm vi áp thuế CBPG sẽ mở rộng dựa trên dữ liệu sẵn có bất lợi. Các nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc nhập khẩu không tham gia vào việc xuất khẩu sản phẩm bị điều tra sang Brazil hoặc nhập khẩu các linh, phụ kiện vào Brazil trong giai đoạn điều tra có thể yêu cầu được loại trừ khỏi phạm vi mở rộng áp thuế.

Các nhà nhập khẩu không tham gia vào việc nhập khẩu sản phẩm, linh phụ kiện trong giai đoạn điều tra phải nộp các dữ liệu pháp lý và thực tế đầy đủ để chứng minh rằng:

  1. Các nhà nhập khẩu này không duy trì mối quan hệ hoặc có liên quan với các bên có liên quan của vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế mà dẫn tới việc mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp CBPG;
  2. Các nhà nhập khẩu này không nhập khẩu linh phụ kiện vào Brazil trong giai đoạn điều tra; và
  3. Các hoạt động công nghiệp hóa dẫn tới trị giá gia tăng ít nhất 25%, trên cơ sở tổng trị giá sản xuất sản phẩm.

                   Thuế CBPG được mở rộng trong khuôn khổ một vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế sẽ bị rà soát hoàng hôn.

                   Các điều khoản quy định liên quan đến biện pháp sơ bộ và cam kết giá trong vụ việc điều tra CBPG sẽ không áp dụng với vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế. Thuế chống lẩn tránh thuế sẽ chấm dứt khi thuế chống bán phá giá gốc hết hiệu lực. Brazil không quy định áp dụng hồi tố cho biện pháp chống lẩn tránh thuế.

Điều 124 đến 139 của Nghị định 8058/2013 quy định về quy trình và thủ tục điều tra chống lẩn tránh thuế.

Một trong những điểm khác của một vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế và CBPG, cụ thể như sau:

         - Không có các bị đơn bắt buộc, vì vậy, cơ quan điều tra sẽ tiến hành gửi bảng câu hỏi đến tất cả các công ty xuất khẩu sản phẩm bị điều tra của nước có cáo buộc là lẩn tránh thuế.

         - Không có các giai đoạn sơ bộ như trong các vụ việc CBPG.

         - Thời gian đối với mỗi giai đoạn như: yêu cầu trả lời bảng câu hỏi, quá trình tham vấn, quá trình thẩm tra tại chỗ sẽ được tiến hành rút ngắn thời gian so với vụ việc CBPG.

Quy trình điều tra chống lẩn tránh thuế chống trợ cấp

Cuối năm 2013, Brazil khởi xướng tham vấn công khai liên quan đến các thay đổi, điều chỉnh và làm rõ đối với các quy định về điều tra chống trợ cấp. Mặc dù việc tham vấn đã kết thúc vào cuối năm 2014, nhưng Brazil vẫn chưa ban hành quy định mới về điều tra chống trợ cấp. Do đó, quy định điều tra về chống lẩn tránh thuế chống trợ cấp vẫn chịu sự điều chỉnh của Nghị quyết 63/2010 và Sắc lệnh 21/2010.

Hiện nay, theo pháp luật của Brazil, không có các quy định cụ thể về quy trình điều tra vụ việc chống lẩn tránh thuế chống trợ cấp, vì vậy quy trình điều tra là do cơ quan điều tra tự xem xét.

Thực tế, quy trình điều tra của Brazil đang được tiến hành như quy trình điều tra của biện pháp CBPG, tuy nhiên, thời gian sẽ được rút ngắn so với vụ việc điều tra ban đầu.

 

[1] Biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp đã được giải thích ở trên.

Biện pháp tự vệ là biện pháp áp với hàng nhập khẩu khi có hiện tượng nhập khẩu gia tăng ồ ạt, đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng tới ngành sản xuất hàng hoá tương tự, hàng cạnh tranh trực tiếp trong nước. Biện pháp này áp dụng không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hàng hoá (áp toàn cầu), trong khi biện pháp CBPG/CTC áp với đối tượng nước cụ thể (1 vụ việc chỉ điều tra với 1 hoặc 1 số nước).

[2] Quyết định về chống lẩn tránh, ngày 15/12/1993 quy định: “Các Bộ trưởng hiểu rằng khi vấn đề lẩn tránh biện pháp chống bán phá giá cấu thành một phần của đàm phán Hiệp định thực thi Điều VI GATT 1994, các nhà đàm phán đã không thể thống nhất về lời văn cụ thể. Các Bộ trưởng cũng hiểu mong muốn về việc áp dụng các quy định thống nhất trong lĩnh vực này càng sớm càng tốt, do đó, quyết định đưa vấn đề này ra Hội đồng về các Hành vi chống bán phá giá được thành lập theo Hiệp định nói trên để giải quyết.”

[3] Vụ việc EU điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG và CTC với màng PET từ Ấn Độ (2004).

[4] Tham khảo Yanning Yu (2008).

[5] Những loại này đã được chấp nhận bởi các thành viên WTO mà phản đối việc đưa các quy định về lẩn tránh thuế vào Hiệp định ADA hiện tại, ví dụ Nhật Bản. Xem WTO, G/ADP/IG/W/0 ngày 28/4/1998, quan điểm của Nhật Bản

[6] Điều 2.6 ADA.

[7] Theo Điều 2.1 ADA, ‘phá giá’ xảy ra theo điều kiện thương mại thông thường, nếu hàng xuất khẩu được xuất khẩu từ một nước (nước xuất khẩu) tới một nước khác (nước nhập khẩu). Do đó, hàng xuất khẩu bị điều tra thường được giới hạn ở một số nước xuất khẩu cụ thể.

[8] Nếu không có quy định cụ thể về tỷ lệ phần trăm để xác định mức độ gia công như thế nào thì được công nhận là đáp ứng quy tắc xuất xứ.

[9] Điều 11.8 SCMA.

[10] https://uk.practicallaw.thomsonreuters.com/w-011-0773?transitionType=Default&contextData=(sc.Default)&firstPage=true&comp=pluk&bhcp=1

[12] https://www.bakermckenzie.com/-/media/files/expertise/ma-resources/Doing_Business_In_Brazil.pdf

[13] https://www.internationallawoffice.com/Newsletters/International-Trade/Brazil/Barretto-Ferreira-Kujawski-Brancher-e-Gonalves-Sociedade-de-Advogados-BKBG/Application-of-anti-circumvention-measures-regulated

[14] https://thelawreviews.co.uk/chapter/1148531/brazil.