Luật pháp, quy định của EC về phương pháp tính toán biên độ trợ cấp trong các vụ việc điều tra áp dụng biện pháp chống trợ cấp của EU

  1. Tổng quan quy định về điều tra trợ cấp và áp dụng biện pháp đối kháng của Liên minh Châu Âu
  1. Cơ sở pháp lý

Hiện nay, các quy định pháp lý về điều tra chống trợ cấp và áp dụng biện pháp đối kháng của EC được quy định tại ở Quy định số 597/2009 ngày 11 tháng 6 năm 2009 về việc bảo vệ chống lại hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp từ các nước không phải thành viên của Cộng đồng Châu Âu.

Quy định này được hệ thống hoá dựa trên nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau của EU và các điều ước quốc tế mà EU là thành viên, bao gồm :(1) Điều 133 Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu; (2) Các quy chế thành lập tổ chức chung về các thị trường nông nghiệp và Các quy chế được thông qua phù hợp với Điều 308 của Hiệp ước (1) áp dụng với hàng hoá được sản xuất từ các sản phẩm nông nghiệp, và cụ thể là các điều trong các Quy định trên cho phép miễn trừ nguyên tắc chung về các biện pháp bảo vệ tại biên giới có thể được đơn phương thay thế bởi các biện pháp được nêu trong các Quy định này; (3) Quy định của Hội đồng (EC) số 2026/97 ngày 6 tháng 10 năm 1997 về việc bảo vệ chống lại hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp từ các nước không phải thành viên của Cộng đồng châu Âu; (4) Kết quả cuối cùng của Vòng đàm phán Uruguay về thương mại đa phương, thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); (5) Phụ lục 1A của Hiệp định thành lập WTO (Hiệp định WTO), được Hội đồng thông qua bằng Quyết định Số 94/800/EC ngày 22 tháng 12 năm 1994 kết luận thay mặt cho Cộng đồng Châu Âu, trong đó, không kể các vấn đề khác, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994), Hiệp định về Nông nghiệp, Hiệp định về việc thực thi Điều VI của GATT 1994 (Hiệp định Chống bán phá giá – ADA) và Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (Hiệp định trợ cấp – SCM).

  1. Quy định về trợ cấp và biện pháp đối kháng
  1. Định nghĩa trợ cấp

Theo quy định pháp luật của WTO tại Điều 1 Hiệp định Trợ cấp và biện pháp đối kháng (SCM Agreements), trợ cấp được coi là tồn tại nếu

“(a)(1)    có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc một cơ quan công trên lãnh thổ của một Thành viên (theo Hiệp định này sau đây gọi chung là “chính phủ”) khi:

  1. chính phủ chuyển trực tiếp các khoản vốn (ví dụ như cấp phát, cho vay, hay góp cổ phần), các khoản chuyển vốn hoặc nhận nợ trực tiếp có khả năng xảy ra (như  bảo lãnh tiền vay);
  2. các khoản thu phải nộp cho chính phủ đã được bỏ qua hay không thu (ví dụ: ưu đãi tài chính như giảm thuế );
  3. chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở chung, hoặc mua hàng;
  4. chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực thi một hay nhiều chức năng đã nêu từ điểm (i) đến (iii) trên đây, là những chức năng thông thường được trao cho chính phủ và công việc của tổ chức tư nhân này trong thực tế không khác với những hoạt động thông thuờng của chính phủ.

hoặc

(a) (2) có bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung Điều XVI của Hiệp định GATT 1994;

(b)          một  lợi ích do đó đã được cấp.”

Nhìn chung, trợ cấp là một công cụ chính sách của Chính phủ các quốc gia để nhằm hỗ trợ việc phát triển kinh tế, an sinh xã hội, phát triển khoa học công nghệ, hỗ trợ người nghèo, hỗ trợ giáo dục, hỗ trợ dân tộc vùng miền khó khăn… Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy rằng các khoản trợ cấp này đã góp phần gây ra sự bóp méo thương mại quốc tế hay nói cách khác các khoản trợ cấp này đã tạo ra thương mại không công bằng mà điều này cần phải được loại bỏ trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại trên toàn cầu.

Do đó, WTO đã có những quy định để xử lý các hành vi trợ cấp gây ra cạnh tranh không lành mạnh giữa hàng hóa được trợ cấp và hàng hóa tương tự không được trợ cấp từ quốc gia khác. Hiệp định SCM của WTO cũng quy định cơ chế, biện pháp để đấu tranh lại với việc trợ cấp này.

  1. Phân loại trợ cấp:

Theo quy định của WTO, có 3 loại trợ cấp như sau:

- Trợ cấp bị cấm: là những khoản trợ cấp bị cấm hoàn toàn (bao gồm trợ cấp xuất  khẩu và trợ cấp để ưu tiên sử dụng hàng nội địa thay vì hàng nhập khẩu)

- Trợ cấp không thể đối kháng: là những khoản trợ cấp không dành riêng cho bất cứ ngành công nghiệp, doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp nào (ví dụ như trợ cấp để nghiên cứu, phát triển chung, hỗ trợ vùng miền khó khăn,..) Tuy nhiên những khoản trợ cấp này đã phải chấm dứt kể từ năm 1999.

- Trợ cấp có thể đối kháng: Những trợ cấp có thể đối kháng là những loại trợ cấp (ngoài những trợ cấp thuộc 02 mục trên) gây ra ảnh hưởng xấu tới lợi ích của Thành viên khác. Những trợ cấp có thể đối kháng thường gây ra những ảnh hưởng sau:

  • Trợ cấp của một quốc gia có thể gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước của quốc gia nhập khẩu
  • Trợ cấp của một quốc gia có thể gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu của quốc gia khác khi cạnh tranh ở một nước thứ 3
  • Trợ cấp trong nội địa của một quốc gia có thể gây thiệt hại cho những nhà xuất khẩu muốn cạnh tranh ở thị trường này.
  1. Biện pháp đối kháng:

Theo quy định của WTO, đối với những khoản trợ cấp bị cấm và trợ cấp có thể đối kháng được, thì quốc gia bị thiệt hại có thể sử dụng 02 phương pháp để giải quyết việc vi phạm của Thành viên có trợ cấp nói trên gồm: (1) sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO hoặc (2) điều tra áp dụng biện pháp đối kháng (Countervailing duty). Tuy nhiên, luật pháp của EU chỉ quy định một phương pháp đó là việc điều tra áp dụng biện pháp đối kháng.

Biện pháp đối kháng được sử dụng với mục đích để bù đắp những phần trợ cấp của hàng hóa nhập khẩu nhằm đảm bảo điều kiện thương mại công bằng và bảo vệ ngành sản xuất trong nước khỏi thiệt hại từ hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp.

Trong một vụ việc điều tra áp dụng biện pháp đối kháng (CVD), để áp thuế chống trợ cấp (hay thuế đối kháng) cơ quan điều tra của EU là Ủy ban Châu Âu (EC) phải điều tra và chứng minh được các chương trình trợ cấp của Chính phủ nước xuất khẩu phải thỏa mãn các điều kiện sau:

  1. Doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng lợi ích từ các chương trình trợ cấp có thể đối kháng;
  2.  Và hàng hóa xuất khẩu được trợ cấp này gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể tới ngành sản xuất nội địa của Liên minh Châu Âu;
  3. Biện pháp đối kháng phải có lợi ích tới Liên minh.

Nếu có kết luận về việc phải áp dụng biện pháp chống trợ cấp, thì thường ở dưới dạng thuế đối kháng hoặc cam kết giá từ nhà xuất khẩu hoặc chính phủ nước trợ cấp. Mục đích của một trong hai dạng biện pháp này là để bù đắp lại tác động của trợ cấp gây ra thiệt hại. Do đó, theo quy định của EC (Điều 15.1 quy định 2026/97), mức thuế đối kháng sẽ không vượt quá mức trợ cấp được tìm thấy và mức thuế phải thấp hơn mức trợ cấp nếu việc áp thuế thấp hơn này là đủ để loại bỏ thiệt hại cho ngành sản xuất của Liên minh.

Dù là trong trường hợp nào thì cần phải biết được mức trợ cấp chính xác, điều này yêu cầu phải có một phương pháp tính toán mức trợ cấp.

Trợ cấp có thể dưới nhiều dạng nhưng phải tạo thành lợi ích. Theo quy định tại Điều 5 quy chế 2026/17, việc tính toán lợi ích sẽ phản ánh được lượng trợ cấp tồn tại trong giai đoạn điều tra và không chỉ đơn giản là giá trị bề mặt của lượng trợ cấp vào thời điểm chuyển cho bên nhận hoặc chính phủ không thu. Do đó, giá trị bề mặt của trợ cấp phải được chuyển đổi thành giá trị thực tế trong giai đoạn điều tra thông qua việc áp dụng mức lãi suất thị trường thông thường.

  1. Quy định của EC về việc tính toán biên độ trợ cấp trong các vụ việc điều tra
  1. Tính toán trợ cấp theo đơn vị/trị giá ad valorem

Hiệp định SCM của WTO và Quy định số 2026/97 của EC cho rằng ảnh hưởng chính của trợ cấp đó là làm giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Do đó, nhằm phản ánh được điều này, Hiệp định SCM và Quy định của EC đã quy định rằng việc tính toán biên độ trợ cấp là để xác định lợi ích mà doanh nghiệp được hưởng trên từng đơn vị sản phẩm trong giai đoạn điều tra. Nếu là sản phẩm tiêu dùng, ví dụ như ti vi, đơn vị phù hợp sẽ là từng chiếc tivi. Nếu là sản phẩm khối lượng lớn, không đóng bao, ví dụ như phân bón, hóa chất thì có thể tính trợ cấp theo tấn hoặc đơn vị đo lường phù hợp khác. Do đó, loại trợ cấp đơn giản nhất để tính là loại được cấp theo đơn vị.

Trợ cấp tính theo đơn vị có thể được quy thành mức giá trị ad valorem tại biên giới của Liên minh bằng cách diễn đạt trợ cấp theo đơn vị như là % của giá CIF nhập khẩu trung bình (chưa tính thuế) trên một đơn vị sản phẩm. Bằng cách này thì có thể kết luận là liệu lượng trợ cấp có phải là de minimis (không đáng kể) hay không do được thể hiện ở dạng giá trị % (ví dụ về lượng trợ cấp được coi là de minimis nếu chỉ ở mức 1% đối với hàng nhập khẩu từ các nước phát triển, 2-3% đối với nước đang phát triển).

Như đã phân tích ở phần trên của bài viết, các chương trình trợ cấp bị điều tra thường là những chương trình ưu đãi miễn giảm đối với thuế (các loại thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp...), cho vay ưu đãi để đầu tư phát triển hoặc để sản xuất xuất khẩu, các khoản ưu đãi trợ cấp liên quan đến đất đai, cung cấp nguyên liệu đầu vào với giá thấp hoặc sản phẩm được nhà nước mua lại với giá cao giá thị trường…

  1. Nhìn chung các khoản trợ cấp được tính toán dựa vào sự so sánh sự khác biệt giữa chi phí thực tế của doanh nghiệp và chi phí dự kiến sẽ phải chi nếu không có khoản trợ cấp đó trong giai đoạn điều tra.Tính toán trợ cấp đối với một số loại trợ cấp cụ thể
    1. Cấp phát (grant)

Trong trường hợp một khoản cấp phát (hoặc tương đương) có nghĩa là không phải trả lại tiền, trị giá của trợ cấp là lượng cấp phát có xét đến sự khác biệt giữa thời điểm được nhận và giai đoạn điều tra, nghĩa là giai đoạn mà việc sản xuất hoặc bán hàng được thực hiện.

Do đó, nếu khoản cấp phát được phân bổ trong giai đoạn điều tra (nghĩa là được dùng hết để sử dụng cho sản xuất hoặc bán hàng trong giai đoạn này), tiền lãi đáng lẽ sẽ phát sinh trong giai đoạn này sẽ được cộng thêm vào. Tuy nhiên, nếu khoản cấp phát này được phân bổ trong một giai đoạn dài hơn giai đoạn điều tra, tiền lãi sẽ được cộng vào theo cách khác (sẽ giải thích ở dưới).

Bất kỳ khoản thu nhập nào được chuyển hoặc không phải thu (ví dụ miễn thuế nhập khẩu hoặc thuế thu nhập, khấu trừ, khoản tiền tiết kiệm từ việc được cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ ưu đãi hoặc có được từ việc bán hàng cao hơn mức giá thông thường) thì được coi là tương đương với một khoản cấp phát.

Ví dụ cụ thể về khoản cấp phát hoặc tương đương

Để tính toán được tổng lượng trợ cấp, tất cả những khoản được nêu trong ví dụ dưới đây cần được cộng thêm tiền lãi như đã trình bày ở trên; tổng mức trợ cấp cũng phụ thuộc vào việc liệu khoản trợ cấp là được phân bổ hay là chi phí.

  1. Chuyển tiền trực tiếp: Đây là trường hợp đơn giản nhất, lượng trợ cấp đúng bằng lượng mà doanh nghiệp nhận được (ví dụ một khoản trợ cấp để bù đắp những khoản lỗ trong hoạt động).
  2. Miễn thuế: lượng trợ cấp là lượng thuế đáng lẽ công ty được miễn thuế phải trả với mức thuế suất cơ bản áp dụng trong giai đoạn điều tra

(iii) Giảm thuế: lượng trợ cấp được xác định bằng khoản chênh lệch giữa mức thuế thực tế công ty được giảm trong giai đoạn điều tra và lượng đáng nhẽ phải nộp tại mức thuế thông thường. (phương pháp tương tự được áp dụng cho tất cả các loại miễn giảm nghĩa vụ  ví dụ: thuế nhập khẩu, thanh toán tiền trợ cấp cho thôi việc, tiền an sinh xã hội)

(iv) Khấu hao nhanh: Việc khấu hao nhanh tài sản cố định theo một chương trình của chính phủ được coi như là khoản giảm thuế. Điều này sẽ dẫn đến việc tăng chi phí của doanh nghiệp và làm giảm đi lượng thuế mà doanh nghiệp phải nộp trong năm tài chính đó. Lượng trợ cấp được xác định bằng sự chênh lệch của khoản thuế mà doanh nghiệp đáng lẽ phải nộp trong giai đoạn điều tra theo lịch trình khấu hao thông thường đối với tài sản liên quan và khoản thuế mà doanh nghiệp thực sự nộp theo chương trình khấu hao nhanh. Do khấu hao nhanh dẫn đến việc doanh nghiệp được giảm thuế trong giai đoạn điều tra nên điều này tạo thành lợi ích.

(v) Trợ cấp lãi suất: Trong trường hợp này, lượng trợ cấp là lượng lãi suất mà công ty được nhận trợ cấp tiết kiệm được trong giai đoạn điều tra.

b. Những khoản vay

Việc tính toán lượng trợ cấp đối với các khoản vay thường là những trợ cấp ưu đãi về lãi suất và cá biệt là những trường hợp hoãn thuế hay cho vay không hoàn lại.

Đối với những trợ cấp ưu đãi về lãi suất:

Theo nguyên tắc chung, lượng trợ cấp được xác định bằng lượng lãi suất chênh lệch giữa việc doanh nghiệp đi vay từ Chính phủ và đi vay từ ngân hàng thương mại tư nhân trong giai đoạn điều tra.

Cụ thể trong các trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ phải so sánh lãi suất mà doanh nghiệp phải trả (khi vay từ chính phủ) và lãi suất thông thường đối với những khoản vay cho một doanh nghiệp tương tự từ các ngân hàng thương mại tư nhân trong nội địa quốc gia xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp không có các thông tin về lãi suất các khoản vay ở thị trường tư nhân, thì cơ quan điều tra có thể xây dựng mức lãi suất của các ngân hàng thương mại tư nhân dựa trên các dữ liệu về nền kinh tế tại thời điểm đó và tình trạng của doanh nghiệp bị đơn.

Từ đó, cơ quan điều tra xác định được sự chênh lệch lãi suất và lượng ưu đãi mà doanh nghiệp đã được hưởng trong giai đoạn điều tra.

Đối với một số trường hợp cá biệt:

  • Hoãn thuế: Trong một số trường hợp việc hoãn thuế hay hoãn bất cứ nghĩa vụ tài chính nào khác đều có thể được coi là một khoản cho vay không lãi suất của nhà nước đối với doanh nghiệp được hưởng. Do đó, lượng ưu đãi cũng sẽ được tính toán theo phương pháp ở trên.
  • Cấp vốn có hoàn lại: trường hợp này cũng được coi là khoản vay không phải trả lãi cho đến khi hoàn lại. Nếu không hoàn lại, toàn bộ hoặc một phần, thì sẽ được coi là khoản cấp vốn thay vì là khoản vay không trả lãi từ ngày mà bắt đầu không hoàn lại. Nếu khoản cấp vốn được phân bổ theo thời gian, việc phân bổ này sẽ bắt đầu vào ngày không hoàn lại. Lượng trợ cấp sẽ là lượng cấp vốn trừ đi những khoản đã khoản lại.
  • Cho vay không hoàn lại: Trong một số trường hợp, các khoản vay được xác định là không phải hoàn lại gốc vay thì toàn bộ khoản vay này (bao gồm cả gốc và lãi) sẽ được coi là một khoản trợ cấp được tính từ ngày cho vay.

c. Bảo lãnh khoản vay

Nhìn chung, việc bảo lãnh khoản vay sẽ làm giảm rủi ro của bên cho vay và tạo điều kiện cho doanh nghiệp – bên đi vay - dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với nguồn vốn rẻ hơn (lãi suất thấp hơn). Trên thực tế, nếu chính phủ thực hiện việc bảo lãnh cho vay thì việc doanh nghiệp được vay với lãi suất ưu đãi hơn có thể không được coi là khoản trợ cấp nếu việc bảo lãnh này đều được dựa trên mục tiêu thương mại (doanh nghiệp phải trả khoản phí để được vay bảo lãnh với lãi suất ưu đãi).

Trong trường hợp, chương trình bảo lãnh vay của chính phủ được xác định là không dựa trên cơ sở, mục đích thương mại thì chương trình này sẽ được coi là một sự đóng góp tài chính của chính phủ và tạo nên trợ cấp dành cho doanh nghiệp. Lượng trợ cấp mà doanh nghiệp được hưởng đối với chương trình này được xác định bằng 1 trong 2 phương pháp: (i)sự chênh lệch giữa  khoản phí mà doanh nghiệp thực trả và phí mà doanh nghiệp đáng lẽ phải trả để chương trình bảo lãnh có tính khả thi hoặc (ii) khoản mà doanh nghiệp trả cho khoản vay được bảo lãnh (phí + lãi suất) và lượng lãi suất doanh nghiệp phải trả nếu vay thương mại (tùy phương pháp nào cho kết quả thấp hơn).

Nếu doanh nghiệp không phải trả một khoản phí nào để nhân được ưu đãi thì mức trợ cấp được xác định bằng sự chênh lệch giữa khoản tiền mà công ty phải trả cho khoản vay được bảo lãnh và khoản tiền mà công ty sẽ phải trả cho một khoản vay thương mại thông thường mà không có sự bảo lãnh của chính phủ.

Nguyên tắc tính toán tương tự cũng áp dụng cho việc bảo lãnh tín dụng.

d. Hàng hóa dịch vụ được nhà nước cung cấp

Hàng hóa, dịch vụ được nhà nước cung cấp đều có thể được xác định là một khoản trợ cấp nếu nó được cung cấp với giá thấp hơn giá của hàng hóa, dịch vụ đó ở thị trường nội địa. Ví dụ việc nhà nước cấp quyền sử dụng đất hoặc cho thuê đất đối với các doanh nghiệp với giá ưu đãi hơn so với giá cả trên thị trường tự do. Lượng trợ cấp trong trường hợp này được xác định là sự chênh lệch giữa cái giá mà công ty phải trả cho hàng hóa/dịch vụ và giá đủ để bù đắp cho hàng hóa/dịch vụ đó trong điều kiện thị trường thông thường (nếu giá phải trả cho chính phủ là thấp hơn giá thị trường).

Giá đủ bù đắp thường được xác định trong điều kiện thị trường tại thị trường nước xuất khẩu và việc tính toán khoản trợ cấp phải chỉ phản ánh phần hàng hóa/dịch vụ mà được sử dụng trực tiếp trong quá trình sản xuất hoặc bán sản phẩm tương tự trong giai đoạn điều tra.

 Trong trường hợp có nhà cung cấp tư nhân

Cũng giống như các chương trình trợ cấp khác, việc xác định lượng trợ cấp mà doanh nghiệp được nhận là bằng cách so sánh đơn giá dịch vụ, hàng hóa do nhà nước cung cấp với giá của các doanh nghiệp tư nhân cung cấp. Từ đó, trong trường hợp này, cơ quan điều tra xác định được lượng trợ cấp mà doanh nghiệp nhận được là sự chênh lệch giữa giá của nhà nước và giá thấp nhất mà doanh nghiệp tư nhân cung cấp cho bị đơn trong giai đoạn điều tra.

Nếu trong trường hợp doanh nghiệp bị đơn không có giao dịch nào đối với các nhà cung cấp tư nhân thì giá bán của thị trường tự do sẽ được xác định bằng giá của một công ty tương tự (trong cùng ngành nghề) trả để mua sản phẩm đó từ thị trường tự do. Và việc xác định lượng trợ cấp cũng bằng cách so sánh giá như trên.

Trường hợp chính phủ cung cấp độc quyền:

Nếu trong trường hợp chính phủ là nhà cung cấp duy nhất trên thị trường (vd là thị trường điện, nước) thì những hàng hóa, dịch vụ độc quyền của nhà nước cung cấp sẽ được coi là thấp hơn giá đủ bù đắp nếu một công ty hoặc ngành nghề cụ thể được hưởng lợi từ giá ưu đãi này. Trong trường hợp này, lượng trợ cấp được xác định là sự khác biệt giữa giá bán ưu đãi cho doanh nghiệp bị đơn (hoặc ngành sản xuất sản phẩm điều tra) so với giá bán thông thường.

Tuy nhiên,nếu hàng hóa, dịch vụ này được cung cấp rộng rãi trên toàn thị trường, thì sẽ coi là trợ cấp mang tính riêng biệt nếu có bằng chứng chứng minh rằng có giá ưu đãi dành riêng cho một ngành nghề hay doanh nghiệp nào đó.

Có thể là giá sẽ khác nhau tùy thuộc vào các tiêu chí khách quan và trung lập, ví dụ người mua với số lượng lớn thì sẽ phải trả thấp hơn với người mua nhỏ lẻ, ví dụ khi mua khí đốt và điện. Trong trường hợp này, việc một số doanh nghiệp được hưởng lợi từ giá ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp khác không có nghĩa là việc cấp hàng hóa/dịch vụ là thấp hơn giá đủ bù đắp nếu việc định giá này được áp dụng chung cho toàn bộ nền kinh tế chứ không phải là áp cho một lĩnh vực hoặc doanh nghiệp cụ thể nào. Lượng trợ cấp, về mặt nguyên tắc, là sự chênh lệch giữa giá ưu đãi và giá thông thường.

Tuy nhiên, nếu giá thông thường là không đủ để bù đắp tổng chi phí trung bình của nhà cung cấp (có cộng thêm khoản lợi nhuận hợp lý trung bình của ngành), lượng trợ cấp là khoản chênh lệch giữa giá ưu đãi và giá đủ bù đắp chi phí và lợi nhuận.

Nếu chính phủ là nhà cung cấp độc quyền hàng hóa/dịch vụ có công dụng cụ thể, vấn đề giá ưu đãi không xảy ra, và lượng trợ cấp sẽ là sự chênh lệch giữa giá mà doanh nghiệp liên quan phải trả và giá bù đắp chi phí và lợi nhuận của nhà cung cấp.

e.Trường hợp chính phủ mua sắm hàng hóa

Trong trường hợp mà Chính phủ thực hiện mua hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp bị điều tra (ở mức giá cao hơn mức bán cho thị trường tự do) thì lượng trợ cấp được xác định bằng sự chênh lệch giữa giá chính phủ mua vào và giá cao nhất mà doanh nghiệp bán cho khối tư nhân. Nếu doanh nghiệp liên quan không bán cho khối tư nhân, thì cần xem xét giá mua của doanh nghiệp tư nhân trong ngành từ các doanh nghiệp có thể so sánh được.

Cũng như trên, trong trường hợp nhà nước độc quyền trong việc mua hàng hóa, dịch vụ đó thì lượng trợ cấp được xác định bằng lượng chênh lệch giữa giá bán của công ty đủ để bù đắp (bao gồm giá thành trung bình trong giai đoạn điều tra + lợi nhuận hợp lý) và giá nhà nước trả cho công ty (cao hơn mức giá nói trên). Tuy nhiên mức giá bán đủ để bù đắp của công ty được xác định trên cơ sở từng vụ việc.

f. Chính phủ cấp vốn chủ sở hữu (equity capital)

Việc Chính phủ cấp vốn chủ sở hữu sẽ không được coi là tạo ra lợi ích, trừ phi quyết định đầu tư có thể được coi là không phù hợp với thông lệ đầu tư thông thường (bao gồm cả việc cấp khoản vốn mang tính rủi ro) của nhà đầu tư tư nhân ở nước xuất khẩu.

Do đó, việc cấp vốn chủ sở hữu bản thân nó không tạo ra lợi ích. Vấn đề là liệu nhà đầu tư tư nhân liệu có đầu tư vào công ty mà chính phủ cấp vốn chủ sở hữu hay không. Trên cơ sở nguyên tắc này, vấn đề này cần được xử lý theo từng vụ việc. Rõ ràng là nếu chính phủ mua cổ phiếu ở một công ty và trả với giá cao hơn giá thị trường cho những cổ phiếu này (có xét đến các yếu tố khác mà có thể đã ảnh hưởng đến một nhà đầu tư tư nhân), lượng trợ cấp là khoản chênh lệch giữa hai mức giá.

Theo nguyên tắc chung, trong trường hợp không có thị trường cho các cổ phiếu giao dịch tự do, thì kỳ vọng thực tế của chính phủ đối với khoản lợi nhuận có thể mang lại khi mua cổ phiếu cần được xem xét. Trong trường hợp này, nếu có tồn tại một nghiên cứu độc lập cho thấy là công ty liên quan là một khoản đầu tư hợp lý thì đây sẽ là bằng chứng hợp lý nhất, nếu không thì gánh nặng đặt lên vai chính phủ khi phải chứng minh được cơ sở mà mình kỳ vọng vào khoản lợi nhuận hợp lý có thể mang lại từ khoản đầu tư này.

Trong trường hợp không có giá thị trường và việc bơm tiền để mua cổ phiếu được thực hiện như là một phần của một chương trình đầu tư bởi chính phủ, cần lưu ý đến không chỉ các phân tích liên quan đến công ty được mua cổ phiếu mà còn xem xét cả tình trạng chung của chương trình trong vòng một số năm gần nhất. Nếu thông tin cho thấy là chương trình đầu tư này đã đem lại một lợi nhuận hợp lý cho chính phủ, thì nên được coi là chính phủ hành động theo thông lệ đầu tư thông thường của nhà đầu tư tư nhân. Ngược lại, thì chính phủ phải chứng minh được cơ sở cho việc có kỳ vọng vào khoản đầu tư này.

Việc tồn tại một khoản trợ cấp được xác định dựa trên thông tin mà các bên sẵn có vào thời điểm bơm vốn. Do đó, nếu việc bơm vốn đã được thực hiện một vài năm trước, việc công ty hoạt động không hiệu quả như mong đợi không có nghĩa là tồn tại trợ cấp, nếu có thể chứng minh được việc kỳ vọng vào khoản lợi nhuận dựa trên những số liệu, thực tế có được vào thời điểm bơm vốn.

Ngược lại, có thể tồn tại trợ cấp thậm chí là đã đạt được mức lợi nhuận hợp lý, nếu tại thời điểm bơm vốn, triển vọng về khoản lợi nhuận đó là không chắc chắn đến mức không nhà đầu tư tư nhân nào muốn đầu tư.

Trong trường hợp không có giá thị trường cho khoản bơm vốn và có tồn tại trợ cấp và lợi ích, nghĩa là chính phủ đã không hành động như thông lệ thông thường của một nhà đầu tư tư nhân, toàn bộ hoặc một phần tiền bơm vốn đó phải bị coi là khoản cấp vốn (grant). Quyết định rằng toàn bộ khoản bơm vốn đó sẽ được coi là khoản cấp vốn chỉ nên được đưa ra trong trường hợp đặc biệt nếu cho rằng chính phủ không có ý định nhận bất kỳ khoản lợi nhuận nào từ khoản đầu tư trên và thực ra là cấp một khoản vốn trá hình cho công ty liên quan. Quyết định về việc bao nhiêu phần trăm khoản bơm vốn này sẽ được coi là khoản cấp vốn sẽ phụ thuộc vào việc chính phủ tiếp cận gần với tiêu chí của nhà đầu tư tư nhân như thế nào và điều này sẽ được đưa ra trên cơ sở từng trường hợp cụ thể.

g. Chính phủ không thu khoản nợ

Việc chính phủ hoặc ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước không thu khoản nợ khiến cho doanh nghiệp không phải trả các nghĩa vụ tài chính và vì thế sẽ được coi là một khoản cấp vốn. Nếu khoản trợ cấp này được phân bổ theo thời gian thì giai đoạn phân bổ sẽ được tính bắt đầu từ thời điểm không thu khoản nợ. Lượng trợ cấp sẽ là số tiền nợ chưa trả (bao gồm cả lãi cộng gộp).

F. Các quy định về việc phân bổ các khoản trợ cấp - giai đoạn điều tra trợ cấp:

Giai đoạn điều tra trợ cấp:

Theo quy định các khoản trợ cấp phải được xác định trong giai đoạn điều tra – thông thường là năm tài chính gần nhất của doanh nghiệp được hưởng lợi (Điều 4(1) của Quy định số 2026/97). Mặc dù theo quy định, giai đoạn điều tra chỉ cần ít nhất là 6 tháng trước khi khởi xướng điều tra, nhưng việc sử dụng năm tài chính gần nhất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra hơn vì các dữ liệu sẽ sẵn có hơn với tính chính xác cao hơn do được kiểm toán.

Bởi vì có nhiều khoản trợ cấp sẽ được cấp trong nhiều năm, những cũng nên điều tra những chương trình trợ cấp đã được cấp trước giai đoạn điều tra để xác định phần trợ cấp được phân bổ trong giai đoạn điều tra là bao nhiêu.

(i) nếu trợ cấp được cấp theo từng đơn vị sản phẩm. VD: trợ cấp chiết khấu xuất khẩu trên từng đơn vị sản phẩm, thì lượng trợ cấp được xác định một cách thông thường bằng giá trị bình quân gia quyền của lượng chiết khấu trong giai đoạn điều tra.

(ii) Một số dạng trợ cấp khác mà không được thể hiện trên từng đơn vị sản phẩm mà là một khoản chung thì cần được phân bổ một cách hợp lý trên từng đơn vị sản phẩm.

Phân bổ các khoản trợ cấp

  • Đối với các khoản trợ cấp không lặp lại (non recurring)

Do có những khoản trợ cấp mà doanh nghiệp được hưởng từ trước giai đoạn điều tra nhưng có ảnh hưởng trong nhiều năm (ví dụ như mua tài sản cố định), cơ quan điều tra phải xác định được tỷ lệ của khoản trợ cấp đó được phân bổ trong giai đoạn điều tra là bao nhiêu. Cụ thể đối với tài sản cố định, tất cả các ưu đãi, trợ cấp liên quan tới tài sản cố định như miễn giảm thuế, phí,… đều sẽ phải được phân bổ đều theo tuổi đời của sản phẩm (giống như việc hạch toán khấu hao tài sản cố định)

 (Điều 7(3) của Quy định số 2026/97). Do đó lượng trợ cấp được phân bổ trong từng năm trong quá trình khấu hao tài sản cố định. Việc này có thể hoàn thành theo phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Ví dụ, nếu thời gian khấu hao bình thường là 5 năm, thì 20% lượng trợ cấp sẽ được phân bổ trong giai đoạn điều tra (1 năm).

Cách tiếp cận việc phân bổ theo thời gian có nghĩa rằng các trợ cấp không lặp lại (non-recurring) được cấp nhiều năm trước giai đoạn điều tra cũng có thể bị đối kháng nếu nó vẫn có hiệu lực trong giai đoạn điều tra.

Loại phân bổ này tương đương với việc cấp vốn hàng năm có lặp lại (mỗi năm cấp một khoản bằng nhau). Để xác định lợi ích cho bên được nhận, thì cần cộng cả lãi suất thương mại năm.

Trong trường hợp ngoại lệ, nếu trợ cấp không lặp lại nhỏ hơn 1% giá trị tài sản thì thường sẽ không được phân bổ hàng năm mà tính luôn trong một năm.

  • Đối với những khoản trợ cấp lặp lại (recurring) được cấp trong giai đoạn điều tra

Đối với những khoản trợ cấp này, do doanh nghiệp được hưởng ưu đãi định kỳ hàng năm (recurring) (như giảm thuế TNDN hay ưu đãi lãi suất cho vay ngắn hạn, nên lượng trợ cấp sẽ rơi toàn bộ vào trong giai đoạn điều tra. Khi tính toàn bộ lợi ích đối với doanh nghiệp được nhận, cơ quan điều tra sẽ cộng cả mức lãi suất thương mại theo năm, do giả định rằng nếu không được nhận khoản trợ cấp này thì doanh nghiệp đó cũng phải vay tiền và trả lãi.

Trong trường hợp trợ cấp lặp lại có liên quan đến mua tài sản cố định, ví dụ miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc (xảy ra trước giai đoạn điều tra), khoản lợi ích có được từ những năm trong trong giai đoạn khấu hao cũng cần được xem xét và phân bổ một lượng hợp lý cho giai đoạn điều tra.

Ngoài ra, trợ cấp lặp lại mà được cấp với lượng lớn, tập trung trước giai đoạn điều tra thì trong một số trường hợp cũng sẽ được phân bổ theo thời gian nếu xác định được rằng khoản trợ cấp này có liên quan đến việc mua tài sản cố định và vẫn tạo ra lợi ích trong giai đoạn điều tra.

Đối với việc phân bổ trợ cấp vào từng đơn vị sản phẩm, theo quy định của EC và Hiệp định SCM, đối với mỗi loại trợ cấp sẽ được phân bổ vào từng đơn vị sản phẩm theo các cách khác nhau cho phù hợp với bản chất của khoản trợ cấp đó. Cụ thể:

  1. Trợ cấp xuất khẩu: Cơ quan điều tra sẽ lấy toàn bộ lượng trợ cấp được xác định là trợ cấp xuất khẩu trong giai đoạn điều tra chia cho tổng lượng xuất khẩu của doanh nghiệp trong giai đoạn điều tra (bởi vì ưu đãi này chỉ dành cho hàng xuất khẩu)
  2. Trợ cấp không dành riêng cho xuất khẩu: Đối với loại hình trợ cấp này, do cả hàng hóa bán nội địa lẫn hàng hóa xuất khẩu đều được hưởng lợi nên cơ quan điều tra sẽ phải chia lượng trợ cấp này cho tổng doanh số bán hàng (nội địa + xuất khẩu) của doanh nghiệp.
  3. Nếu chương trình trợ cấp chỉ dành cho một sản phẩm riêng biệt thì biên độ trợ cấp chỉ tính lượng trợ cấp trên từng đơn vị sản phẩm của sản phẩm đó. Còn nếu là chương trình trợ cấp chung thì phải chia đều trên tổng doanh số bán hàng của doanh nghiệp được hưởng lợi.

G. Giảm trừ (deduction) từ khoản trợ cấp

Điều 7(1) của Quy định số 2026/97 quy định rằng chỉ trong một số trường hợp sau thì lượng trợ cấp có thể được giảm trừ:

(i) Bất cứ khoản phí hoặc chi phí cần thiết phát sinh nào để doanh nghiệp có thể được đăng ký, hưởng trợ cấp:

Cần chú ý rằng điều này phụ thuộc vào nhà xuất khẩu của quốc gia liên quan có thực hiện việc yêu cầu giảm trừ hay không; trong trường hợp không có yêu cầu giảm trừ cùng với bằng chứng chứng minh thì doanh nghiệp sẽ không được giảm trừ. Lượng phí và chi phí có thể được giảm trừ là những gì đã được thanh toán trực tiếp cho chính phủ trong giai đoạn điều tra. Phải chứng minh được rằng khoản phí đó là bắt buộc để được hưởng những ưu đãi, trợ cấp. Do đó, những chi phí cho các bên tư nhân như luật sư, kế toán sẽ không được giảm trừ. Kể cả những khoản đóng góp tự nguyện cũng không được xét giảm trừ.

(ii) Thuế xuất khẩu, thuế hoặc phí khác đối với việc xuất khẩu một sản phẩm sang EU với mục đích bù lại lượng trợ cấp

Những yêu cầu giảm trừ này chỉ có thể được chấp nhận nếu những thuế và phí này được thu trong giai đoạn điều tra và tiếp tục bị thu ngay cả sau khi biện pháp áp thuế cuối cùng được đưa ra.

Ngoài ra, bình thường sẽ không có khoản nào được giảm trừ khỏi lượng trợ cấp.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Hiện nay, hàng hoá có xuất xứ từ Việt Nam liên tục bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại và không có xu hướng ngừng lại. Do đó, đây vẫn luôn là những khó khăn đối với doanh nghiệp xuất khẩu và cả Chính phủ Việt Nam. Hơn hết, nguy cơ hàng hóa xuất khẩu bị điều tra chống trợ cấp lại có xu hướng tăng và các vụ việc đều bắt nguồn từ các thị trường lớn – có kim ngạch xuất khẩu cao của Việt Nam là Hoa Kỳ và EU

Từ phía Chính phủ, nhằm đối phó với các vụ kiến chống trợ cấp Việt Nam cần có những bình luận, lập luận, đề xuất thể hiện rõ ý kiến, quan điểm nhằm cập nhật thông tin về chính sách pháp luật của Việt Nam tránh gây hiểu nhầm từ phía cơ quan điều tra. Trong các vụ việc chống trợ cấp cụ thể mà Chính phủ Việt Nam là một bên liên quan, Chính phủ cần thể hiện rõ sự hợp tác khi tham gia vào vụ việc nhưng cũng có thể để ngỏ khả năng đưa các quốc gia khởi kiện ra Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO nếu như quy trình điều tra của các quốc gia này không minh bạch, vi phạm pháp luật và các cam kết của các Thành viên với WTO và gây ra cản trở thương mại.

Về phía các hiệp hội, ngành hàng, các nhà sản xuất/xuất khẩu cần chủ động tìm hiểu thông tin, cập nhật tình hình pháp luật của các thị trường xuất khẩu, phân tích các nguy cơ ‘bị kiện’ để có các hành động ứng phó kịp thời; chủ động giữ mối quan hệ thường xuyên với các nhà nhập khẩu tại thị trường xuất khẩu để nắm bắt các thay đổi trên thị trường xuất khẩu. Đặc biệt, các hiệp hội và các nhà sản xuất/xuất khẩu cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan của Chính phủ để được tư vấn, hỗ trợ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Hơn nữa, để chuẩn bị tốt hơn cho công tác kháng kiện, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần nghiên cứu kĩ hơn về phương pháp tính toán của các cơ quan điều tra để nhằm chuẩn bị sẵn sàng những tài liệu, thông tin để chứng minh được hàng hóa xuất khẩu của mình là không bán phá giá hoặc không được trợ cấp.