Báo cáo Ban Hội thẩm vụ việc Tây Ban Nha kiện Hoa Kỳ tại WTO về biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp của Hoa Kỳ đối với ô liu nhập khẩu từ Tây Ban Nha (DS577)

Ngày 19 tháng 11 năm 2021, Báo cáo của Ban Hội thẩm vụ việc Hoa Kỳ - Thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với ô liu chín từ Tây Ban Nha (DS577) đã được công bố. Tranh chấp này liên quan đến thuế đối kháng và chống bán phá giá mà Hoa Kỳ áp liên quan đến các cuộc điều tra với ô liu chín nhập khẩu từ Tây Ban Nha.

Các điều khoản được phán quyết dựa trên: Điều 2.1, 2.1 (a), 2.4, 10, 12.1, 12.8, 15.1., 15.2, 15.4, 15.5 Hiệp định SCM. Điều 3.1, 3.2, 3.4, 3.5 và Điều VI: 3 GATT 1994.

Một số vấn đề chính đáng chú ý liên quan đến vụ việc:

1. Việc giải thích và áp dụng điều khoản về tính cụ thể theo luật (de jure) theo Điều 2.1 (a) Hiệp định SCM, bao gồm:

1.1 Theo Điều 2.1 (a), cơ quan cấp trợ cấp, hoặc quy định pháp luật mà cơ quan cấp trợ cấp hoạt động theo quy định đó, quy định về việc hạn chế khả năng tiếp cận một cách rõ ràng với trợ cấp. Theo đó, Điều 2.1 (a) không loại trừ khả năng đưa ra kết luận về tính cụ thể theo quy định pháp luật (de jure) dựa trên các quy tắc điều chỉnh việc tính toán các khoản trợ cấp theo một chương trình trợ cấp, hoặc, dựa trên một giới hạn "tiếp cận" được tìm thấy trong các quy tắc điều chỉnh số tiền trợ cấp được cung cấp theo chương trình trợ cấp. Tuy nhiên, vì các quy tắc điều chỉnh việc tính toán số tiền trợ cấp có thể không phải là đặc điểm duy nhất của chương trình trợ cấp dựa trên "quyền hoặc cơ hội được hưởng lợi từ hoặc sử dụng" trợ cấp, một kết luận về tính cụ thể của trợ cấp mà bỏ qua các đặc điểm khác có liên quan các đặc điểm của chương trình trợ cấp sẽ không có cơ sở. Do đó, mặc dù Điều 2.1 (a) không loại trừ khả năng làm căn cứ cho kết luận về tính cụ thể (về mặt quy định pháp luật) đối với các tiêu chí hoặc điều kiện điều chỉnh số tiền trợ cấp, bất kỳ việc sử dụng căn cứ nào như vậy không được chọn lọc một cách có chủ ý xét trên các đặc điểm của quy định pháp luật (de jure) liên quan khác của chương trình trợ cấp.

1.2. Điều 2.1 (a) không đề cập đến bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố cụ thể nào có thể được tính đến hoặc có thể không được tính đến để đưa ra kết luận về tính cụ thể về mặt luật pháp. Nó cũng không quy định một phương pháp luận cụ thể phải được tuân theo. Do đó, cơ quan điều tra có quyền xem xét và dựa trên bất kỳ sự kiện nào mà cơ quan này cho là có liên quan để xác định và hiểu liệu các hành động của "cơ quan cấp trợ cấp" trong việc cung cấp khoản trợ cấp đang bị điều tra hay "luật pháp" mà cơ quan đó hoạt động theo đó, có giới hạn rõ ràng hay không "việc tiếp cận" một khoản trợ cấp cho các doanh nghiệp nhất định. Điều này bao gồm cả các dữ kiện liên quan đến một chương trình trợ cấp trước đây không còn hiệu lực.

 2. Việc giải thích và áp dụng Điều VI:3 GATT 1994 và Điều 10 Hiệp định SCM, đối với việc chuyển giao (pass through) trợ cấp đầu vào cho các sản phẩm chế biến bao gồm:

  1. .1. Các thành viên được quyền bù đắp trợ cấp "gián tiếp" bằng cách áp thuế đối với các sản phẩm nhập khẩu được hưởng trợ cấp dành cho các công ty và sản phẩm "thượng nguồn". Trường hợp nhà sản xuất sản phẩm đầu vào thượng nguồn hoạt động trên cơ sở thương mại (không có liên kết) với nhà sản xuất sản phẩm hạ nguồn được sản xuất bằng cách sử dụng đầu vào thượng nguồn, theo Điều VI:3 GATT 1994 và Điều 10 Hiệp định SCM, cơ quan điều tra phải chứng minh rằng lợi ích của trợ cấp được cung cấp trực tiếp đối với sản phẩm thượng nguồn đã được chuyển cho sản phẩm hạ nguồn để đánh thuế đối kháng đối với sản phẩm hạ nguồn nhập khẩu.
  2. .2. Một Thành viên nhập khẩu không được quyền giả định rằng một khoản trợ cấp dành cho một sản phẩm đầu vào sẽ chuyển (pass through) toàn bộ hoặc một phần đến sản phẩm nhập khẩu đã qua chế biến. Thay vào đó, cơ quan điều tra phải tìm ra, càng chính xác càng tốt, tỷ lệ của khoản trợ cấp đã được chuyển gián tiếp từ sản phẩm đầu vào đến sản phẩm hạ nguồn để đảm bảo rằng bất kỳ khoản thuế chống trợ cấp nào được áp với sản phẩm hạ nguồn không vượt mức tổng trợ cấp dành cho sản phẩm bị điều tra. Không có quy định nào về phương pháp để thực hiện phân tích chuyển dịch (pass through) trong trường hợp bắt buộc phải tiến hành phân tích này. Cơ quan điều tra có quyền quyết định nhất định trong việc đánh giá liệu và mức độ lợi ích của khoản trợ cấp được cung cấp trực tiếp cho người sản xuất sản phẩm đầu nguồn có chuyển sang sản phẩm hạ nguồn sản xuất bởi một doanh nghiệp không liên quan hay không. Thẩm quyền quyết định này không phải là không bị kiểm soát. Cơ quan điều tra phải cung cấp cơ sở phân tích cho những kết luận của mình về sự tồn tại và mức độ của sự chuyển giao, có tính đến các sự kiện.

2. 3. Mục 771B của Đạo luật Thuế quan năm 1930 của Hoa Kỳ được kết luận làkhông phù hợp với Điều VI:3 GATT 1994 và Điều 10 Hiệp định SCM vì yêu cầu USDOC giả định rằng toàn bộ lợi ích của khoản trợ cấp được cấp đối với một nông sản đầu vào được chuyển sang sản phẩm nông nghiệp chế biến ở hạ nguồn, chỉ dựa trên việc xem xét hai trường hợp thực tế, không để ngỏ khả năng tính đến bất kỳ yếu tố nào khác có thể liên quan đến việc xác định liệu có bất kỳ sự chuyển hóa và, nếu vậy, mức độ của nó.

  1. . Việc giải thích và áp dụng các điều khoản về thiệt hại tại Điều 3 Hiệp định chốngbán phá giá và Điều 15 Hiệp định SCM, bao gồm:
  2. . 1. Điều 3 Hiệp định chống bán phá giá và Điều 15 Hiệp định SCM không quy định cơ quan điều tra xem xét các phần, khu vực hoặc phân khúc của thị trường theo một cách cụ thể khi tiến hành điều tra thiệt hại. Tuy nhiên, cơ quan điều tra có quyền quyết định xem xét các phần hoặc các phân đoạn của thị trường mà cơ quan điều tra cho là phù hợp. Việc phân tích như vậy phải dựa trên cơ sở xem xét khách quan các bằng chứng xác thực.
  3. . 2. Mặc dù việc xác định thiệt hại phải liên quan đến ngành sản xuất trong nước như cơ quan điều tra xác định phù hợp với Điều 4.1 Hiệp định chống bán phá giá và Điều 16.1 Hiệp định SCM, cơ quan điều tra có thể xem xét các phân đoạn của thị trường trong một phân tích thiệt hại thậm chí nếu không được xác định rõ ràng trong định nghĩa về ngành sản xuất trong nước.

3. 3. Để chứng minh sự tuân thủ với câu đầu tiên của Điều 3.2 và Điều 15.2, các tài liệu liên quan trong hồ sơ phải chỉ ra rõ ràng rằng cơ quan điều tra đã “lưu ý và xem xét” liệu có sự gia tăng đáng kể trong việc nhập khẩu hàng bán phá giá hay không, cả về mặt tuyệt đối hoặc tương đối. Không nhất thiết phải ra kết luận về sự gia tăng tuyệt đối hoặc tương đối của lượng nhập khẩu của hàng hóa bị điều tra.

Tin tức khác